TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 58/2023/DS-PT NGÀY 21/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 21 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 347/2022/TLPT-DS ngày 11 tháng 11 năm 2022 về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 17/2022/DS-ST ngày 07 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố X bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 35/2023/QĐPT-DS ngày 13 tháng 01 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Ngô NĐ, sinh năm 1962;
2. Bà Phạm NĐ1, sinh năm 1961;
Cư trú tại: Số nhà 175A, Ấp 1, xã P, thành phố X, tỉnh Y.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Ngô NĐ và bà Phạm NĐ1 là: Ông Trần UQ, sinh năm 1978, cư trú tại: Số nhà 78A, Ấp K, xã P, huyện P, tỉnh Y.
- Bị đơn: Ông Nguyễn BĐ, sinh năm 1985;
Cư trú tại: Số nhà 137/1, Ấp K, xã P, huyện P, tỉnh Y.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Bùi LQ, sinh năm 1980;
Cư trú tại: Số nhà 403D, Ấp 1, xã P, thành phố X, tỉnh Y.
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi LQ là: Ông Trương UQ2, sinh năm 1978, cư trú tại: Ấp K, xã P, huyện P, tỉnh Y.
2. Bà Lê LQ2, sinh năm 1983;
Cư trú tại: Số nhà 137/1, Ấp K, xã P, huyện P, tỉnh Y.
Bà Lê LQ2 có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt.
3. Bà Phạm LQ3, sinh năm 1964;
4. Ông Trần LQ4, sinh năm 1962;
5. Ông Trần LQ5, sinh năm 1983;
6. Bà Trần LQ6, sinh năm 1986;
Cư trú tại: Số nhà 175A, Ấp 1, xã P, thành phố X, tỉnh Y.
Bà Phạm LQ3, ông Trần LQ4, ông Trần LQ5, bà Trần LQ6 có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người kháng cáo: Ông Bùi LQ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung ngày 25/01/2021 cùng các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Ngô NĐ, bà Phạm NĐ1 và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Trần UQ trình bày:
Năm 2006, vợ chồng ông Ngô NĐ và bà Phạm NĐ1 có nhận chuyển nhượng một phần đất từ cụ Nguyễn G, tọa lạc tại Ấp 1, xã P, thành phố X, tỉnh Y với giá 10.000.000 đồng. Hai bên có làm giấy mua bán viết tay, sau khi giao tiền đầy đủ cho cụ G, vợ chồng ông Ngô NĐ đã nhận đất canh tác ổn định và cất nhà ở từ năm 2006 đến nay nhưng chưa làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất do cụ Nguyễn G đang thế chấp quyền sử dụng đất vay vốn ngân hàng. Đến năm 2009, cụ G chết, ông Nguyễn BĐ là con trai của cụ G có thương lượng với gia đình ông NĐ là để sau khi ông BĐ làm thủ tục nhận di sản của cụ G xong thì sẽ làm thủ tục sang tên phần đất đã chuyển nhượng năm 2006 cho vợ chồng ông vì ngoài thửa đất đã chuyển nhượng thì cụ G còn để lại cho ông BĐ nhiều thửa đất khác. Đến năm 2010, ông Nguyễn BĐ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 60, diện tích 404,5m2 tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại Ấp 1, xã P, thành phố X, tỉnh Y là thửa đất hiện do vợ chồng ông NĐ đang quản lý sử dụng. Khi đó ông NĐ nhiều lần yêu cầu ông BĐ làm thủ tục sang tên phần đất này lại cho ông nhưng ông BĐ chỉ hứa mà không thực hiện.
Năm 2020, ông Nguyễn BĐ, bà Lê LQ2 tiếp tục chuyển nhượng phần đất tranh chấp cho ông Bùi LQ việc chuyển nhượng này giữa ông BĐ và ông LQ thì vợ chồng ông Ngô NĐ hoàn toàn không hay biết. Trong quá trình quản lý sử dụng đất vợ chồng ông NĐ có bồi đắp thêm phần mương ranh nên diện tích thực tế có tăng lên so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa 60. Khoảng năm 2018, 2019 vợ chồng ông Ngô NĐ, bà Phạm NĐ1 có cho gia đình của người em gái là bà Phạm LQ3 xây cất một căn nhà bên cạnh nhà của vợ chồng ông NĐ trên cơ sở là chuyển nhượng một nền nhà nhưng do là chị em trong gia đình nên từ khi cất nhà đến nay hai bên chưa hoàn tất thủ tục theo qui định, đối với phần diện tích này hai bên sẽ tự thương lượng không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nay ông Ngô NĐ, bà Phạm NĐ1 khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:
- Yêu cầu ông Nguyễn BĐ, bà Lê LQ2 phải tiếp tục hoàn tất thủ tục chuyển nhượng phần đất diện tích 437,5m2, thuộc thửa đất số 60, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại Ấp 1, xã P, thành phố X, tỉnh Y.
- Kiến nghị Uỷ ban nhân dân thành phố X thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số hiệu BA 176115 đã cấp cho ông Nguyễn BĐ ngày 30/3/2010 để cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông.
Theo các lời khai trong quá trình tố tụng bị đơn ông Nguyễn BĐ trình bày:
Ông là con duy nhất của cụ Nguyễn G, ông không đồng ý tiếp tục thực hiện thủ tục chuyển nhượng phần đất diện tích 404,5m2 thuộc thửa đất số 60, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại Ấp 1, xã P, thành phố X, tỉnh Y theo yêu cầu của ông Ngô NĐ, bà Phạm NĐ1 vì ông không có chuyển nhượng phần đất tranh chấp cho ông NĐ. Cụ Nguyễn G là mẹ của ông nhưng ông không biết việc cụ có bán thửa đất trên cho vợ chồng ông NĐ. Mấy năm trước mẹ ông có kêu ông ký tên thì ông ký nhưng không biết là ký giấy bán đất do ông không có đọc lại.
Ông cũng có biết việc vợ chồng ông NĐ cất nhà trên đất nhưng lâu quá rồi nên cũng không nhớ năm và cũng nghĩ là mẹ ông cho thuê. Năm 2009, thì mẹ ông mất, ông đi đăng ký thừa kết tài sản của mẹ để lại. Khi mẹ ông còn sống cũng không có nói với ông là đã bán phần đất trên cho vợ chồng ông NĐ. Năm 2019, vợ chồng Ông NĐ có yêu cầu ông thực hiện thủ tục chuyển nhượng sang cho vợ chồng ông nhưng ông không đồng ý và có trả lời nếu muốn mua thì ông đồng ý bán còn chuyện mua bán trước đây thì ông không có bán nếu không mua thì sẽ bán cho người khác, yêu cầu những người đang ở trên đất tự di dời để ông thực hiện hiện chuyển nhượng đất cho người khác.
Đến ngày 27/2/2020, ông chuyển nhượng phần đất này cho ông Bùi LQ với giá 50.000.000 đồng thì ông Ngô NĐ tranh cản với lý do mẹ ông đã bán phần đất này cho vợ chồng ông NĐ. Ông Nguyễn BĐ đồng ý tiếp tục chuyển nhượng phần đất trên cho ông LQ còn chuyện mẹ ông bán trước đó không đồng ý thực hiện. Đối với việc vợ chồng ông NĐ có cho gia đình bà Phạm LQ3 cất thêm một căn nhà trên đất vào năm 2019 với lý do chuyển nhượng hay cho ở nhờ thì ông BĐ không biết.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Bùi LQ cùng người đại diện theo ủy quyền là ông Trương UQ2 trình bày:
Ngày 27/2/2020, ông Bùi LQ có nhận chuyển nhượng phần đất diện tích 404,5m2 thuộc thửa đất số 60, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại Ấp 1, xã P, thành phố X, tỉnh Y của ông Nguyễn BĐ, bà Lê LQ2 với giá 50.000.000 đồng, hai bên có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng ngày 27/02/2020.Theo hợp đồng ông LQ và ông BĐ chuyển nhượng với nhau hai thửa đất là thửa 281 diện tích 249m2 với giá 100.000.000 đồng và thửa 60 diện tích 404.5m2 với giá 50.000.000 đồng, ông LQ đã thực hiện hoàn thành việc chứng thực hợp đồng và đã giao đủ tiền cho ông Nguyễn BĐ, bà Lê LQ2. Sau đó, ông LQ đi đăng ký kê khai theo qui định nhưng bị Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã trả hồ sơ vì có tranh chấp giữa vợ chồng ông NĐ với ông BĐ tại thửa 60, riêng thửa 281 ông Bùi LQ đã thực hiện hoàn thành thủ tục đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Khi chuyển nhượng là do chuyển toàn bộ thửa 60 nên ông Bùi LQ không có khảo sát đất và cắm mốc ranh trên đất, không có yêu cầu đo đạc trước khi ký kết hợp đồng với vợ chồng ông BĐ nên ông LQ không phát hiện trên đất có cất hai căn nhà của gia đình ông Ngô NĐ và gia đình bà Phạm LQ3. Ông Bùi LQ đồng ý thương lượng, ông sẽ nhận phần trống còn hai căn nhà của vợ chồng ông NĐ và Trắng thì đồng ý giao lại để ông BĐ giải quyết.
Hiện tại, ông LQ là người đang giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 176115 của Uỷ ban nhân dân thành phố X, tỉnh Y cấp cho ông Nguyễn BĐ ngày 30/3/2010 do vợ chồng ông BĐ đã giao cho ông khi ký hợp đồng và nhận tiền chuyển nhượng đất. Ông LQ có yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn BĐ bà Lê LQ2 tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bàn giao phần đất thuộc thửa 60, tờ bản đồ 9, tọa lạc tại xã P, thành phố X, tỉnh Y. Ông Bùi LQ đồng ý nhận phần diện tích còn lại xác định trên hồ sơ đo đạc ngày 21/12/2021 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố X, tỉnh Y là thửa ký hiệu 60B, diện tích 106.1m2 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm LQ3 trình bày:
Bà Phạm NĐ1 là chị của bà; năm 2019 bà Phạm NĐ1 có chuyển nhượng cho bà phần đất đủ để cất một căn nhà diện tích khoảng 93m2 với số tiền là 90.000.000 đồng nằm trên thửa đất mà vợ chồng ông NĐ, bà Phạm NĐ1 đang tranh chấp với ông BĐ. Khi chuyển nhượng hai bên có làm giấy tay hiện tại hai bên chưa hoàn tất thủ tục theo qui định và bà cũng chưa trả đủ tiền cho vợ chồng bà Phạm NĐ1. Gia đình bà có 4 nhân khẩu gồm có chồng bà và hai người con tên Trần LQ4, Trần LQ5 và Trần LQ6 đang thực tế sinh sống sử dụng ổn định và không có ai tranh chấp từ khi cất nhà cho đến nay.
Hiện tại, ông Ngô NĐ, bà Phạm NĐ1 và ông Nguyễn BĐ đang tranh chấp phần đất có liên quan đến đất và căn nhà của bà đang ở nhưng gia đình bà không có ý kiến và từ chối tham gia tố tụng. Trường hợp Tòa án giải quyết phần đất trên của ông Nguyễn BĐ thì vợ chồng ông Ngô NĐ phải chịu trách nhiệm với bà, bà sẽ kiện trong một vụ kiện khác. Trường hợp phần đất này Tòa án giải quyết thuộc về gia đình ông NĐ, bà Phạm NĐ1 thì bà với vợ chồng ông NĐ sẽ tự thỏa thuận.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 17/2022/DS-ST ngày 07 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố X đã quyết định như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu của ông Ngô NĐ, bà Phạm NĐ1 về việc yêu cầu ông Nguyễn BĐ tiếp tục thực hiện chuyển nhượng phần đất tại thửa số 60, tờ bản đồ số 9, diện tích 404,5m2 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (trên thực địa là 437.5m2), tọa lạc tại xã P, thành phố X, tỉnh Y. Công nhận “Giấy mua bán” đề ngày 07/6/2006 có hiệu lực pháp luật.
Buộc ông Nguyễn BĐ giao trả quyền sử dụng đất, phần đất tại thửa số 60, tờ bản đồ số 9, diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 404,5m2 tọa lạc tại xã P, thành phố X, tỉnh Y cho vợ chồng ông Ngô NĐ, bà Phạm NĐ1.
Kiến nghị Ủy ban nhân dân thành phố X thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ký hiệu BA 176115 đã cấp cho ông Nguyễn BĐ ngày 30/3/2010 cấp lại cho vợ chồng ông Ngô NĐ, bà Phạm NĐ1 theo diện tích đo đạc trên thực địa của thửa 60, tờ bản đồ số 9 diện tích là 437.5m2.
Ông Ngô NĐ, bà Phạm NĐ1 liên hệ cơ quan có thẩm quyền đăng ký cấp quyền sử dụng thửa số 60, tờ bản đồ số 9, theo diện tích sử dụng thực tế là 437,5m2 tọa lạc tại xã P, thành phố X, tỉnh Y (có họa đồ kèm theo) 2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Bùi LQ về việc yêu cầu ông Nguyễn BĐ, bà Lê LQ2 tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Cụ thể tuyên:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết ngày 27/2/2020 giữa ông Nguyễn BĐ, bà Lê LQ2 với ông Bùi LQ bị vô hiệu một phần đối với nội dung giao kết tại thửa 60, tờ bản đồ số 9, diện tích 404,5m2 tọa lạc tại xã P, thành phố X, tỉnh Y.
Buộc ông Nguyễn BĐ, bà Lê LQ2 phải có nghĩa vụ liên đới hoàn trả cho ông Bùi LQ số tiền 50.000.000 đồng đã nhận và số tiền bồi thường chênh lệch giá là 96.350.000 đồng. Tổng số tiền là 146.350.000 đồng (một trăm bốn mươi sáu triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng).
Buộc ông Bùi LQ giao trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số hiệu BA 176115 ngày 30/3/2010 cho ông Nguyễn BĐ.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, nghĩa vụ chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ, quyền kháng cáo bản án, quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 14/4/2022, ông Bùi LQ kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số: 17/2022/DS-ST ngày 07 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố X yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Bùi LQ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập và yêu cầu kháng cáo. Các bên đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng;
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông Bùi LQ, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Ông Bùi LQ kháng cáo và thực hiện các thủ tục kháng cáo hợp lệ, trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Phần đất tranh chấp có diện tích qua đo đạc thực tế là 437,5m2, thuộc thửa 60, tờ bản đồ số 9, toạ lạc tại xã P, thành phố X, tỉnh Y. Phần đất này được các bên đương sự thừa nhận có nguồn gốc của cụ Nguyễn G. Nguyên đơn trình bày năm 2006 có thoả thuận nhận chuyển nhượng từ cụ G phần đất tranh chấp, ông NĐ đã giao đủ tiền và cụ G cũng đã chỉ ranh, giao đất cho gia đình ông sử dụng, cất nhà ở ổn định từ năm 2006 đến nay. Tuy nhiên, vì khi đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ G đang thế chấp vay tiền ngân hàng nên hai bên không thể thực hiện thủ tục theo quy định. Năm 2009, cụ G chết, phần đất tranh chấp được ông Nguyễn BĐ nhận thừa kế và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mặc dù, ông NĐ đã nhiều lần yêu cầu ông BĐ sang tên cho ông NĐ nhưng ông BĐ không thực hiện, hai bên phát sinh tranh chấp và sau đó ông BĐ chuyển nhượng phần đất này cho ông Bùi LQ vào năm 2020. Ông NĐ, bà Phạm NĐ1 khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc ông BĐ, bà Lê LQ2 hoàn tất thủ tục chuyển nhượng cho ông phần đất tranh chấp và kiến nghị thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông BĐ đối với phần đất thửa 60, tờ bản đồ số 9.
Bị đơn ông Nguyễn BĐ thì cho rằng sự việc chuyển nhượng đất giữa cụ G với ông NĐ theo như lời trình bày của nguyên đơn thì ông không biết, không có tham gia giao dịch nên việc nguyên đơn yêu cầu ông hoàn tất thủ tục chuyển nhượng đất thì ông không đồng ý thực hiện. Ông là người thừa kế duy nhất của của Giằng nên khi cụ G chết ông đã làm thủ tục nhận thừa kế thửa 60 và được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định pháp luật.
[3] Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là “Giấy mua bán” đề ngày 07/6/2006. Theo nội dung “ giấy mua bán”, hai bên thỏa thuận chuyển nhượng phần đất ngang đầu trên 4m và đầu dưới 23m (hai bên không ghi chiều dài, số thửa, tờ bản đồ, không có diện tích cụ thể), phần đất tọa lạc tại xã P, thành phố X, tỉnh Y với giá 10.000.000 đồng. Trong giấy tay này có chữ ký của ông NĐ, cụ G và ông BĐ. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông BĐ cho rằng ông có ký tên vào giấy tay mà nguyên đơn cung cấp nhưng khi đó không biết nội dung, ông chỉ làm theo yêu cầu của cụ G. Mặc dù, việc thoả thuận chuyển nhượng đất bằng giấy tay giữa ông NĐ và cụ G là không phù hợp quy định pháp luật về thức hợp đồng, tuy nhiên, ông NĐ đã giao đủ tiền có cụ G nhận thể hiện tại Biên nhận ngày 07/6/2006, cụ G cũng đã chỉ ranh giao đất cho ông NĐ quản lý, sử dụng, cất nhà ở ổn định trên đất mà không có ý kiến hay tranh chấp gì. Kể cả khi cụ G chết, ông BĐ làm thủ tục đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ông BĐ cũng không có ý kiến gì về việc quản lý, sử dụng đất tranh chấp của nguyên đơn. Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xác định giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ G và ông NĐ là có thật; theo đó công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy tay bán đất ngày 07/6/2006 là phù hợp.
[4] Ông BĐ là người thừa kế duy nhất của cụ G biết được việc cụ G có chuyển nhượng phần đất tranh chấp cho ông NĐ và đã giao đất cho ông NĐ quản lý, sử dụng và phần đất này không còn thuộc quyền sử dụng đất của cụ G; nhưng ông BĐ lại làm thủ tục nhận thừa kế để đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không phù hợp vì phần đất này không phải là di sản mà cụ G chết để lại.
[5] Mặc dù, năm 2019 giữa ông NĐ và ông BĐ đã phát sinh tranh chấp được chính quyền địa phương hoà giải và được Toà án thông báo thụ lý vụ án ngày 15/12/2019 nhưng đến ngày 27/02/2020 ông BĐ lại thực hiện chuyển nhượng phần đất trên cho ông Bùi LQ. Do có tranh chấp giữa vợ chồng ông Ngô NĐ và ông Bùi Minh Hiếu dẫn đến việc ông Bùi LQ không được chấp nhận hồ sơ đăng ký biến động tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố X, tỉnh Y nên phát sinh yêu độc lập của ông Bùi LQ về việc yêu cầu ông vợ chồng ông Nguyễn BĐ tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Xét thấy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 27/2/2020 giữa ông Bùi LQ với ông Nguyễn BĐ: Phần nội dung hợp đồng thể hiện ông BĐ chuyển nhượng phần đất tại thửa 60 cho ông LQ với giá 50.000.000 đồng, hình thức giao tiền là tiền mặt và thời gian là sau khi công chứng xong. Mặc dù, hình thức hợp đồng được công chứng theo đúng qui định của pháp luật. Tuy nhiên về mặt nội dung thấy rằng: Việc ông Nguyễn BĐ và vợ là Lê LQ2 ký kết chuyển nhượng phần đất tại thửa số 60, tờ bản đồ số 9, diện tích 404,5m2, tọa lạc tại xã P, thành phố X cho ông Bùi LQ vào ngày 27/2/2020 là không phù hợp quy định pháp luật; bởi lẽ như đã phân tích ở trên, phần đất tranh chấp đã được cụ G chuyển nhượng cho ông NĐ khi còn sống, nên khi cụ G chết phần đất thửa 60 không còn là di sản của cụ G.
Trên phần đất tranh chấp, ông NĐ xây dựng nhà ở kiên cố, trồng cây lâu năm trên đất. Như vậy, phần đất này thuộc quyền sử dụng của người thứ ba và có tài sản của người thứ ba nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 27/02/2020 giữa ông BĐ, bà Lê LQ2 với ông LQ có đối tượng không thể thực hiện được, Toà án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng bị vô hiệu theo quy định tại 408 Bộ luật Dân sự 2015 là có cơ sở. Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của ông LQ yêu cầu nhận diện tích 106,1m2, thuộc thửa ký hiệu 60B, thuộc một phần thửa 60, tờ bản đồ số 9 theo họa đồ ngày 21/12/2021, đồng ý giao phần diện tích còn lại của thửa 60 cho ông NĐ, bà Phạm NĐ1, tuy nhiên như đã nhận định ở trên, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 27/02/2020 giữa ông BĐ, bà Lê LQ2 với ông LQ là vô hiệu nên yêu cầu này của phía ông LQ là không có cơ sở để xem xét.
[6] Về xác định lỗi trong giao kết hợp đồng và trách nhiệm bồi thường:
Ông BĐ biết việc phần đất tranh chấp không thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông và đang được giải quyết tranh chấp nhưng vẫn giao kết hợp đồng chuyển nhượng với ông LQ dẫn đến hợp đồng không thể thực hiện được nên phía ông BĐ, bà Lê LQ2 được xác định có lỗi. Ông Bùi LQ nhận chuyển nhượng đất nhưng không xem xét thực tế phần đất chuyển nhượng, để nhận chuyển nhượng phần đất không thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông BĐ và có tài sản của người thứ ba trên đất, điều này ông LQ phải biết vì trên đất tranh chấp có nhà của ông NĐ, bà Phạm LQ3 đang sinh sống, không lấy ý kiến của người đang quản lý sử dụng đất; dẫn đến hợp đồng chuyển nhượng không thể thực hiện được nên phía ông LQ cũng có lỗi; Toà án cấp sơ thẩm xác định mỗi bên có ½ lỗi trong trường hợp này là có cơ sở.
Căn cứ theo qui định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận…bên có lỗi gây thiệt hai thì phải bồi thường. Do xác định ông ông BĐ, bà Lê LQ2 và phía ông LQ cùng có lỗi dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông Nguyễn BĐ, bà Lê LQ2 hoàn trả cho ông Bùi LQ số tiền 50.000.000 đồng đã nhận; ông Bùi LQ hoàn trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 176115 đã cấp cho ông Nguyễn BĐ. Đồng thời, buộc ông BĐ, bà Lê LQ2 phải bồi thường cho ông LQ số tiền chênh lệch giá trị tài sản là 96.350.000 đồng (chín mươi sáu triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng) là phù hợp.
Từ những nhận định trên, do ông Bùi LQ kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có căn cứ nên không chấp nhận của ông Bùi LQ, giữ nguyên bản dân sự sơ thẩm. Đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Bùi LQ phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0005344 ngày 28/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố X, tỉnh Y.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi LQ;
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 17/2022/DS-ST ngày 07 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh Y.
Áp dụng các điều 122, 117,119, 130, 131, 688 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 697, 689 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 106, 105, 127 Luật đất đai năm 2003; Điều 167, 188 Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô NĐ, bà Phạm NĐ1 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Nguyễn BĐ.
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thể hiện tại “Giấy mua bán” đề ngày 07/6/2006 giữa ông Ngô NĐ với cụ Nguyễn G, ông Nguyễn BĐ có hiệu lực pháp luật.
Ông Ngô NĐ và bà Phạm NĐ1 được tiếp tục quản lý, sử dụng phần đất có diện tích thực tế 437.5m2, thuộc thửa 60, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại xã P, thành phố X, tỉnh Y.
Ông Ngô NĐ, bà Phạm NĐ1 được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền đăng ký cấp quyền sử dụng đối với thửa số 60, tờ bản đồ số 9, theo diện tích sử dụng thực tế là 437,5m2, tọa lạc tại xã P, thành phố X, tỉnh Y (có họa đồ kèm theo).
Kiến nghị Ủy ban nhân dân thành phố X thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ký hiệu BA 176115 đã cấp cho ông Nguyễn BĐ ngày 30/3/2010 cấp lại cho vợ chồng ông Ngô NĐ, bà Phạm NĐ1 theo diện tích đo đạc thực tế là 437.5m2, thuộc thửa 60, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại xã P, thành phố X, tỉnh Y.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Bùi LQ về việc yêu cầu ông Nguyễn BĐ, bà Lê LQ2 tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết ngày 27/2/2020 giữa ông Nguyễn BĐ, bà Lê LQ2 với ông Bùi LQ tại Văn phòng Công chứng ABC, số công chứng 588, đối với thửa 60, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại xã P, thành phố X, tỉnh Y là vô hiệu.
Buộc ông Nguyễn BĐ, bà Lê LQ2 phải có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Bùi LQ số tiền 146.350.000 đồng (một trăm bốn mươi sáu triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Buộc ông Bùi LQ phải giao trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa 60, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại xã P, thành phố X, tỉnh Y, số hiệu BA 176115 ngày 30/3/2010 cho ông Nguyễn BĐ.
3. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Nguyễn BĐ, bà Lê LQ2 hoàn trả số tiền chi phí thu thập chứng cứ 9.832.000 đồng (chín triệu tám trăm ba mươi hai nghìn đồng) cho ông Ngô NĐ, bà Phạm NĐ1.
4. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm:
Hoàn trả cho ông Ngô NĐ, bà Phạm NĐ1 số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0008371 ngày 28/11/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố X, tỉnh Y.
Ông Nguyễn BĐ, bà Lê LQ2 có trách nhiệm liên đới chịu án phí sơ thẩm là 7.617.500 đồng (bảy triệu sáu trăm mười bảy nghìn năm trăm đồng).
Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) cho ông Bùi LQ theo biên lai thu số 0009002 ngày 07/5/2020 của Chi cục thi hành án Dân sự thành phố X, tỉnh Y - Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Bùi LQ phải chịu là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0005344 ngày 28/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố X, tỉnh Y.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 58/2023/DS-PT
Số hiệu: | 58/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 21/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về