Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 45/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 45/2020/DS-ST NGÀY 05/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 05 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 29/2020/TLST-DS ngày 13 tháng 01 năm 2020 về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2020/QĐXXST - DS ngày 03 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2020/QĐST-DS ngày 20 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Công Đ, sinh năm 1957; nơi cư trú: Số 03 Đường 56, Khu phố 1, phường T, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm 1995, nơi cư trú: Thôn Đ, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (theo giấy ủy quyền ngày 19/9/2019). Có mặt 2. Bị đơn:

2.1 Ông Nguyễn Công T, sinh năm 1971; nơi cư trú: 521/35/24 khu phố B (số cũ 59/26 khu phố B1) phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Có mặt

2.2 Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1972; nơi cư trú: 521/35/24 khu phố B (số cũ 59/26 khu phố B1) phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Có mặt

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1 Ông Phạm Việt B, sinh năm 1974, nơi cư trú: Tổ 5, thị trấn V, huyện V, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt.

3.2. Phòng Công chứng số X tỉnh Bình Dương, trụ sở: 30/7 đường ĐT 743C phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương, do ông Nguyễn Phú C, Trưởng phòng đại diện, có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 28/11/2019, đơn sửa đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 08/01/2020, các lời khai trong thời hạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Ngày 01/6/2011, ông Nguyễn Công Đ và ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, theo đó ông T, bà L chuyển nhượng cho ông Đ quyền sử dụng đất diện tích 509,8m2 thuộc một phần thửa số 952 và một phần thửa 953 tờ bản đồ 33(B2) tọa lạc tại khu phố Bình Phú, phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương, đất đã được Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02058/BC ngày 08/3/2011 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02057/BC ngày 09/3/2011 cho ông Nguyễn Công T với giá 120.000.000 đồng. Ông Đ đã giao hết tiền cho ông T, bà L. Hợp đồng được Phòng Công chứng số X, tỉnh Bình Dương công chứng số 3969, Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/6/2011. Tuy nhiên, đến nay ông T, bà L không tiến hành thủ tục sang tên quyền sử dụng đất, không giao đất cho ông Đ quản lý. Khi ông Đ yêu cầu thì ông Tuệ nói đã nhờ ông Phạm Việt B làm thủ tục tách thửa nhưng ông Đ hoàn toàn không biết ông B là ai, có quan hệ gì với ông T. Do đó, ông Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa ông Đ với ông T, bà L có hiệu lực và yêu cầu ông T, bà L giao cho ông Đ phần đất đã chuyển nhượng diện tích 509,8m2, trong đó thửa 952 là 406,2 m2, thửa 953 là 103,6 m2.

Tài liệu chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp gồm: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/6/2011, giữa bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L, bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Công Đ được Phòng Công chứng số 2, tỉnh Bình Dương công chứng số 3969, Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/6/2011; bản phô tô Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02058/BC ngày 08/3/2011, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02057/BC ngày 09/3/2011, thông báo về việc khởi kiện và các tài liệu khác có liên quan.

- Theo bản tự khai ngày 25/5/2020 của ông Nguyễn Công T, bản tự khai ngày 01/6/2020 của bà Nguyễn Thị L, các lời khai trong thời hạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa bị đơn ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L thống nhất trình bày:

Ngày 01/6/2011, ông Nguyễn Công Đ và vợ chồng ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, theo đó ông T, bà L chuyển nhượng cho ông Đ quyền sử dụng đất diện tích 509,8 m2 thuộc một phần thửa số 952 và một phần thửa 953 (trong đó thửa 952 là 406,2 m2, thửa 953 là 103,6 m2), thửa mới là 1152 tờ bản đồ 33(B2) tọa lạc tại khu phố Bình Phú, phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương, đất đã được Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02058/BC ngày 08/3/2011 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02057/BC ngày 09/3/2011 đứng tên Nguyễn Công T. Hai bên có thỏa thuận giá chuyển nhượng là 150.000.000 đồng nhưng trong hợp đồng ghi giá chuyển nhượng là 120.000.000 đồng. Hợp đồng được Phòng Công chứng số 2, tỉnh Bình Dương công chứng số 3969, Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/6/2011. Sau khi ký hợp đồng ông T, bà L đã nhận 120.000.000 đồng của ông Đ và giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy tờ liên quan cho ông Đ để ông Đ tiến hành thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất, tách giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như thỏa thuận trong hợp đồng chuyển nhượng. Theo yêu cầu khởi kiện của ông Đ yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký kết và giao đất cho ông Đ quản lý, sử dụng, ông T, bà L không đồng ý với lý do như sau:

Ông Đ còn thiếu nợ ông T, bà L số tiền 30.000.000 đồng từ năm 2011 đến nay không thanh toán.

Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì ông T, bà L đã giao cho ông Đ toàn giấy tờ đất để tiến hành thủ tục tách thửa, việc không tiến hành thủ tục tách thửa là do lỗi của ông Đ.

Ông T, bà L không có yêu cầu phản tố và đề nghị Tòa án hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L với ông Nguyễn Công Đ, được Phòng Công chứng số X, tỉnh Bình Dương công chứng số 3969, Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/6/2011. Số tiền 120.000.000 đồng đã nhận ông T, bà L tự nguyện trả cho ông Đ.

Tài liệu chứng cứ mà bị đơn cung cấp gồm: Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Công T (do Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất sao y) và các tài liệu khác có liên quan.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phòng Công chứng số X, tỉnh Bình Dương do ông Nguyễn Phú C đại diện trình bày: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L, bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Công Đ được Phòng Công chứng số X, tỉnh Bình Dương công chứng số 3969, Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/6/2011 do Công chứng viên Phòng Công chứng số 2 tỉnh Bình Dương thực hiện tại trụ sở Phòng Công chứng. Tại thời điểm công chứng, các đương sự minh mẫn, sáng suốt, tự nguyện lập hợp đồng, không bị lừa dối, ép buộc và ký tên vào bản hợp đồng có sự chứng kiến của Công chứng viên.

Đồng thời, tại thời điểm công chứng, Phòng Công chứng số 2 không nhận được bất kỳ văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền đề nghị ngăn chặn việc thực hiện các quyền của người sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Công Tuệ, có hồ sơ xác nhận tình trạng bất động sản để giao dịch dân sự do Ủy ban nhân dân phường Bình Chuẩn xác nhận. Do đó Phòng Công chứng số 2 tỉnh Bình Dương công chứng hợp đồng là đúng quy định của pháp luật.

Phòng Công chứng số 2 cung cấp cho Tòa án toàn bộ tài liệu liên quan đến việc công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Phòng Công chứng số 2, tỉnh Bình Dương công chứng số 3969, Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/6/2011.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Việt Bắc đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do.

Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung:

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L, bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Công Đ được Phòng Công chứng số X, tỉnh Bình Dương công chứng số 3969, Quyển số 01TP/CC- SCC/HĐGD ngày 01/6/2011. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn thừa nhận có ký hợp đồng này và nhận của ông Đ 120.000.000 đồng, đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn cho rằng hai bên thỏa thuận giá chuyển nhượng là 150.000.000 đồng nhưng không cung cấp chứng cứ chứng minh, nguyên đơn không thừa nhận. Do đó có căn cứ xác định nguyên đơn đã giao đủ tiền chuyển nhượng cho bị đơn nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận hợp đồng có hiệu lực, buộc bị đơn phải giao đất cho nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Nguyên đơn khởi kiện bị đơn về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đất tọa lạc tại phường Bình Chuẩn, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương theo quy định tại Điều 26; khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Việt B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án làm việc và vắng mặt tại phiên tòa nên căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự Tòa án xét xử vắng mặt họ.

[3] Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn và bị đơn trình bày thống nhất như sau: Ngày 01/6/2011, vợ chồng ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Công Đ diện tích 509,8m2 thuộc một phần thửa số 952 và một phần thửa 953 tờ bản đồ 33(B2) tọa lạc tại khu phố Bình Phú, phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương, đất đã được Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02058/BC ngày 08/3/2011 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02057/BC ngày 09/3/2011 cho ông Nguyễn Công T đứng tên và ông Đ đã giao cho ông T, bà L số tiền 120.000.000 đồng. Đây là các tình tiết không phải chứng minh theo Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn ông Nguyễn Công Đ khởi kiện yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập giữa ông Đ với ông T, bà L là có hiệu lực và yêu cầu ông T, bà L giao cho ông Đính quyền sử dụng đất diện tích 509,8 m2 thuộc một phần thửa số 952 và một phần thửa 953 (trong đó thửa 952 là 406,2 m2, thửa 953 là 103,6 m2), thửa mới là 1152 tờ bản đồ 33(B2) tọa lạc tại khu phố Bình Phú, phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương cho ông Đính quản lý, sử dụng. Bị đơn ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký kết vì nguyên đơn không giao đủ tiền và tự ý không tiến hành thủ tục sang tên quyền sử dụng đất làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L, bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Công Đ được Phòng Công chứng số X, tỉnh Bình Dương công chứng số 3969, Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/6/2011 đã ghi nhận giá chuyển nhượng là 120.000.000 đồng và bên nhận chuyển nhượng đã thanh toán cho bên chuyển nhượng bằng tiền mặt sau khi hợp đồng được công chứng. Bị đơn cho rằng giá chuyển nhượng là 150.000.000 đồng và đã nhận 120.000.000 đồng từ nguyên đơn nhưng không xuất trình được chứng cứ chứng minh hai bên thỏa thuận giá chuyển nhượng là 150.000.000 đồng như bị đơn trình bày nên Hội đồng xét xử có căn cứ xác định nguyên đơn đã thanh toán hết tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bị đơn.

Quá trình tố tụng và tại phiên tòa, bị đơn xác định sau khi hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công chứng thì bị đơn đã giao cho nguyên đơn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02058/BC ngày 08/3/2011 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02057/BC ngày 09/3/2011 cấp cho ông Nguyễn Công T để nguyên đơn tiến hành thủ tục đăng ký, sang tên quyền sử dụng đất. Nguyên đơn thừa nhận đã nhận giấy tờ do bị đơn giao nhưng đã giao lại cho bị đơn để thuê ông Phạm Việt B là người môi giới tiến hành thủ tục. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông B đến Tòa án làm việc về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng ông Bắc không đến Tòa án cung cấp chứng cứ được xem là từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên Tòa án căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do các đương sự khác cung cấp và do Tòa án thu thập để giải quyết vụ án.

Quyền sử dụng đất diện tích 1291 m2 thửa số 952, tờ bản đồ 33(B2) tọa lạc tại khu phố Bình Phú, phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương, được Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02058/BC ngày 08/3/2011 cho ông Nguyễn Công T và quyền sử dụng đất diện tích 1424 m2 thửa số 953 tờ bản đồ 33(B2), thửa 165 tờ bản đồ 43(B3) tọa lạc tại khu phố Bình Phú, phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương, được Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02057/BC ngày 09/3/2011 cho ông Nguyễn Công T . Đây là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân của ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L nên bà L có quyền và nghĩa vụ trong việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản trên.

Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L, bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Công Đ được Phòng Công chứng số X, tỉnh Bình Dương công chứng số 3969, Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/6/2011 đối với phần đất diện tích diện tích 509,8m2 thuộc một phần thửa số 952 và một phần thửa 953 tờ bản đồ 33(B2) tọa lạc tại khu phố Bình Phú, phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương, đất đã được Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02058/BC ngày 08/3/2011 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02057/BC ngày 09/3/2011 cho ông Nguyễn Công T, mặc dù chưa được đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật nhưng hợp đồng đã được công chứng hợp pháp, bên nhận chuyển nhượng đã thanh toán đầy đủ tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bên chuyển nhượng nên Tòa án công nhận hiệu lực của hợp đồng.

[4] Từ những phân tích nhận định trên, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L, bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Công Đ được Phòng Công chứng số X, tỉnh Bình Dương công chứng số 3969, Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/6/2011 đối với phần đất diện tích 509,8m2 thuộc một phần thửa số 952 và một phần thửa 953 tờ bản đồ 33(B2) tọa lạc tại khu phố Bình Phú, phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương có hiệu lực. Ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L phải giao cho ông Nguyễn Công Đ toàn bộ quyền sử dụng đất trên.

Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L, bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Công Đ được Phòng Công chứng số X, tỉnh Bình Dương công chứng số 3969, Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/6/2011.

[5] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[6] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Nguyên đơn tự nguyện chịu được khấu trừ vào tạm ứng chi phí đã nộp và đã thực hiện xong.

[7] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điều 26; Điều 35; Điều 39; Điều 92; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271;

Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 689; Điều 690; Điều 692; Điều 697; Điều 699; Điều 720 Bộ luật Dân sự năm 2005;

- Điều 500; Điều 502 và Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Điều 105; Điều 106 Luật Đất đai năm 2003;

- Điều 166; Điều 167 Luật Đất đai năm 2013;

- Khoản 2 Điều 8 Quyết định số 25/2017/QĐ-UBND ngày 27/9/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương về quy định diện tích đất tối thiểu được phép tách thửa đối với các loại đất trên địa bàn tỉnh Bình Dương;

- Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Công Đ, công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L, bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Công Đ được Phòng Công chứng số X, tỉnh Bình Dương công chứng số 3969, Quyển số 01TP/CC- SCC/HĐGD ngày 01/6/2011 có hiệu lực pháp luật.

Ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L phải giao cho ông Nguyễn Công Đ quyền sử dụng đất diện tích 509,8 m2 thuộc một phần thửa số 952 và một phần thửa 953 (trong đó thửa 952 là 406,2 m2, thửa 953 là 103,6 m2), thửa mới là 1152 tờ bản đồ 33(B2) tọa lạc tại khu phố Bình Phú, phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02058/BC ngày 08/3/2011 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02057/BC ngày 09/3/2011 do Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An cấp cho ông Nguyễn Công T.

(có sơ đồ, bản vẽ kèm theo) Các đương sự có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Kiến nghị Ủy ban nhân dân thành phố Thuận An thu hồi, điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02058/BC ngày 08/3/2011 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02057/BC ngày 09/3/2011 do Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An cấp cho ông Nguyễn Công T để cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Công Đ và ông Nguyễn Công T cho phù hợp với nội dung bản án này.

2. Về chi phí đo đạc, thẩm định và định giá: Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn tự nguyện nộp 5.392.901 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, được khấu trừ vào tạm ứng chi phí đã nộp.

3. Về án phí:

Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Nguyễn Công T, bà Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

65
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 45/2020/DS-ST

Số hiệu:45/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về