Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 335/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 335/2023/DS-PT NGÀY 17/07/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Vào các ngày 19 tháng 12 năm 2022 và 17 tháng 7 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 222/2022/TLPT-DS ngày 07 tháng 10 năm 2022 về “Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng và tranh chấp quyền sử dụng đất".

Do bản án dân sự sơ thẩm số 36/2022/DS-ST ngày 16 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 338/2022/QĐPT-DS ngày 07 tháng 11 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Lê Văn U, sinh năm 1968,

Người đại diện hợp pháp: Đặng Thị T, sinh năm: 1970 (vợ ông U), Cùng địa chỉ: ấp A, xã Phú Cường, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Phạm Trung Đ – Văn phòng Luật sư Đ thuộc Đoàn luật sư tỉnh Vĩnh Long.

2. Bị đơn: Dương Văn H, sinh năm: 1956, Địa chỉ: ấp A, xã Phú Cường, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1 Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo pháp luật: Trần Thanh Nam, Chủ tịch UBND huyện.

3.2 Đặng Thị T, sinh năm 1970 (vợ ông U).

3.3 Nguyễn Thị S, sinh năm 1956 (vợ ông H).

Người đại diện theo uỷ quyền: Dương Văn H, sinh năm 1966.

3.4 Trần Văn H, sinh năm 1963.

3.5 Trần Minh P, sinh năm 1983.

Cùng địa chỉ: ấp A, xã Phú Cường, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.

Người kháng cáo: Ông Lê Văn U.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn Lê Văn U và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Đặng Thị T trình bày:

Nguồn gốc phần đất tranh chấp là của cha mẹ (ông Lê Văn L, chết năm 1992 và bà Nguyễn Thị H, chết năm 1993) để lại diện tích 2.028m2 (16,9m x 120m). Khi Nhà nước mở lộ Võ Văn Kiệt đã lấy 01 phần đất nên phần đất còn lại bị trũng thấp thành đất ao không trồng lúa được, nên đã sang nhượng cho ông Lê Văn P diện tích 676m2 (16,9m x 40m) và bị đơn Dương Văn H diện tích 200m2 (10m x 20m), còn lại diện tích 1.152m2.

Khi nhà bị siêu vẹo, nên ông cất lại nhà ở phía trước cặp lộ thì ông H ngăn cản. Do đó khởi kiện yêu cầu ông H trả lại diện tích 1.152m2 cụ thể là theo diện tích đất đo đạc thẩm định tại chỗ và trừ đi 200m2 đã bán.

- Bị đơn ông Dương Văn H và người đại diện cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị S trình bày:

Phần đất tranh chấp là của ông nhận sang nhượng của ông U từ năm 1994, đến năm 1997 đào ao nuôi cá; đến năm 2008 được cấp giấy CNQSDĐ diện tích 474m2. Giáp với đất ông nhận sang nhượng và đào ao là đất của ông trồng lúa, nên không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông trình bày: Có văn bản trình bày ý kiến và theo công văn số 842/UBND- NC đề nghị Toà án xét xử theo đúng quy định của pháp luật.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Minh P:

Ông có cất trại cặp lộ khi xem xét thẩm định tại chỗ, nhưng hiện nay đã dỡ bỏ, không có ý kiến gì trong vụ án này.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Văn H:

Trên đất tranh chấp, chỗ cặp ranh với đất của ông thì ông có hỏi ông H để trồng 3 bụi chuối, trong vụ án này không có ý kiến gì, nếu cần thì chặt bỏ, vì cây không có giá trị.

Bản án của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông quyết định:

Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 91, 147, 158, 244 Bộ luật tố tụng dân sự;

Điều 166, 188, 203 Luật đất đai; Điều 500, 502 Bộ luật dân sự; Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

- Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi quyền sử dụng đất, diện tích 496,7m2, thuộc thửa 2680, tờ bản đồ số 06, đất toạ lạc tại xã Phú Cường, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp, do ông Dương Văn H đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đất mương lộ, chưa cấp giấy CNQSDĐ (hiện do ông Dương Văn H quản lý và sử dụng).

- Ông Lê Văn U và bà Đặng Thị T có trách nhiệm di dời trụ đá, vật kiến trúc và cây cối trên đất (nếu có), để trả lại hiện trạng đất cho ông H tiếp tục sử dụng.

- Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: ông Lê Văn U phải chịu 3.143.000 đồng nhưng ông đã nộp và thanh lý hợp đồng xong (hoá đơn thu tiền đo đạc theo hợp đồng số 645/HĐ.ĐĐ ngày 05/01/2022).

- Về án phí dân sự sơ thẩm:

+ Ông Lê Văn U phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 1.117.500 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng đã nộp 1.296.000 đồng theo biên lai thu số 0010374 ngày 29/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Nông. Ông U được nhận lại số tiền chênh lệch là 178.500 đồng.

+ Các ông, bà: Dương Văn H, Nguyễn Thị S, Đặng Thị T, Trần Văn H, Trần Minh P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo, yêu cầu thi hành án của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ông U kháng cáo yêu cầu hủy bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự bà T, Luật sư Điền, ông H, ông H có mặt. Các đương sự khẳng định đã xuất trình thêm đầy đủ các chứng cứ cho Toà án xem xét giải quyết vụ án.

+ Bà T trình bày: Thay yêu cầu kháng cáo, chỉ kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm là chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông U.

+ Luật sư Điền trình bày: Việc chuyển nhượng đất cho ông H chỉ chuyển nhượng diện tích 10m x 20m. Không có hợp đồng chuyển nhượng giữa hai bên. Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông cấp quyền sử dụng đất cho ông H là đúng thủ tục, tuy nhiên không đúng đối tượng. Vì không có sự đồng ý của ông U, bà T; không có thủ tục tách thửa phần đất của ông U, bà T còn lại với diện tích chuyển nhượng cho ông H. Vi phạm Điều 100, Điều 101 Luật Đất đai 2013. Ông H đăng ký quyền sử dụng đất và sử dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông U.

+ Bà T thống nhất ý kiến luật sư trình bày.

+ Ông H trình bày: Không có căn cứ bà T, ông U chuyển nhượng diện tích cho tôi là 200m2. Tôi chuyển nhượng đất từ năm 1993, năm 1994 tôi sử dụng đất đến nay. Đào ao, trồng cây đã ổn định, khi ông U, bà T cất nhà tối đã ngăn cản cũng không có ý kiến. Đất tôi sử dụng ổn định nên yêu cầu giữ nguyên bản án.

+ Ông H không có ý kiến tranh luận.

+ Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp các đương sự thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Về nội dung giải quyết vụ án xét yêu cầu kháng cáo của ông Cận không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thành phần những người tham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng thì các đương sự thống nhất không có ai có yêu cầu bổ sung hay khiếu nại.

[2] Về đất tranh chấp:

Tòa án cấp sơ thẩm qua thu thập chứng cứ xét: Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ, thì phần đất tranh chấp 696,7m2, toạ lạc tại xã Phú Cường, trong đó: 381m2 là đất ao; 168,7m2 hiện trạng có các nóng đá do ông U, bà T dùng để cất nhà (hiện ông H đã được cấp giấy CNQSDĐ diện tích 474m2, thuộc số thửa 2680, tờ bản đồ số 06) và diện tích 147m2 là đất mương lộ (chưa được cấp giấy CNQSDĐ).

[3] Theo văn bản của UBND huyện Tam Nông: thì việc cấp giấy CNQSDĐ cho ông Dương Văn H tại thửa 2680, tờ bản đồ số 06, diện tích 474m2 là đúng trình tự, thủ tục, đối tượng theo quy định. Phần đất 147m2 sau khi giải quyết xong tranh chấp, đủ điều kiện thì cấp giấy CNQSDĐ. Trước năm 2003, phần đất tranh chấp chưa kê khai đăng ký. Đến năm 2008 ông H đăng ký và được cấp giấy, diện tích 474m2, diện tích còn lại ghi nhận trên sổ mục kê là đất mương lộ. Khi thực hiện công trình đường ĐT 844 từ Tam Nông – Trường Xuân (nay là đường Võ Văn Kiệt) không có hồ sơ thu hồi, bồi thường, hổ trợ về đất nên không xác định được người quản lý, sử dụng đất tại thời điểm thực hiện công trình.

Xét yêu cầu của nguyên đơn thấy: nguyên đơn cho rằng, diện tích đất tranh chấp là do cha mẹ cho vì là út trong gia đình (cha mẹ cho không giấy tờ, đã chết, hiện các anh em trong gia đình không tranh chấp). Sau khi cha mẹ (chết) thì ông U sử dụng đến nay, về diện tích đất có chiều ngang 16,9m x chiều dài 120m cũng không có gì chứng minh.

Về phần đất tranh chấp, nguyên đơn khai không thống nhất, cụ thể có lúc khai ranh giới sử dụng từ lộ làng tới hậu phía sau là ấp mương chiến lược cũ, qua mương chiến lược là đất của người khác, lúc thì khai sử dụng qua mương chiến lược tới lộ Võ Văn Kiệt.

Về thời gian sử dụng, lúc thì khai sang nhượng cho ông H năm 1994, lúc thì khai năm 2004 phần đất sau hậu, sau khi sang nhượng xong thì ông H đào ao nuôi cá, phía nguyên đơn sử dụng phần đất cặp lộ làng phía trước rồi bán lại cho ông P, lúc thì khai bán cho ông P phần đất cặp lộ làng xong, rồi dời nhà về gò phía sau, rồi mới bán cho ông H phần đất hậu phía sau cặp gò.

Phần diện tích sang nhượng 200m2 đất cho ông H thì không giấy tờ, không ai chứng kiến, biết là ông H sau khi nhận đất thì đào ao nuôi cá diện tích nhiều hơn diện tích sang nhượng nhưng cũng không chứng minh được việc có tranh chấp xảy ra.

Ông H cho là sau khi nhận sang nhượng thì đào ao hết phần đất trên để nuôi cá và có nhận sang nhượng thêm của ông H 01m ngang để làm đường đi, việc này ông H thừa nhận tại phiên toà và chính ông H là người đào ao cho ông H đến mí mương ấp chiến lược và ông H đã sử dụng nuôi cá. Nên lời khai của bị đơn là phù hợp lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông H.

Ngoài ra, ông H cho là phần đất sang nhượng đào ao nuôi cá là cặp mương chiến lược, rồi đến đất ông trồng lúa, sau khi Nhà nước làm đường thì phần đất ruộng chia làm hai, phía cặp mương ấp chiến lược thì không còn trồng lúa, sau đó ông đi đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần đất cặp đất được cấp giấy tới lộ Võ Văn Kiệt là đất mương lộ, Nhà nước chưa cho đăng ký.

Do nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ chứng minh nguồn gốc đất, diện tích sang nhượng đất, không chứng minh được việc ông H lấn chiếm đất, cũng như không chứng minh được việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H là cấp nhầm đối tượng. Do đó không chấp nhận yêu cầu của ông U.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ông U kháng cáo yêu cầu sửa bản án. Nhưng không cung cấp chứng cứ gì thêm chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Bà T thừa nhận năm 1993 bán đất cho ông H rồi đi làm ăn xa đến nay. Năm 2013 làm móng đá thì ông H ngăn cản. Cho thấy ông H, bà T không sử dụng đất từ năm 1993 sau khi đến năm 2013 thì có dự định làm móng cất nhà, ông H ngăn cản không cho sử dụng thì cũng không có ý kiến tranh chấp. Sau đó, đã cất nhà sử dụng ở vị trí khác.

Ông H chứng minh được có đất ruộng chiều dài từ kênh 1000 đến kênh ấp chiến lược và sử dụng phần đất tranh chấp. Qua tờ tường trình của ông H và thu thập chứng cứ bổ sung lời khai người làm chứng ông Nguyễn Văn Nhơn, ông Lê Văn Luông. Đối chiếu văn bản cung cấp thông tin Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông; Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Tam Nông thì ông H tuy đăng ký quyền sử dụng đất là nguồn gốc đất khai mở nhưng có đủ căn cứ xác định đất ông H sử dụng từ kinh ấp chiến lược đến tỉnh lộ 846. Ông U, bà T không có chứng cứ thỏa thuận chuyển nhượng cho ông H diện tích đất 200m2 (10m x 20m) còn chừa lai diện tích đất tranh chấp. Do đó không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông U. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuy nhiên, do Tòa án cấp sơ thẩm không ghi vị trí cụ thể của diện tích đất tranh chấp theo quy định để thuận lợi cho việc thi hành án. Do đó, cần điều chỉnh lại cách tuyên án về vấn đề này.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp đúng quy định pháp luật nên chấp nhận. Các phần còn lại của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí dân sự phúc thẩm: Do giữ nguyên bản án sơ thẩm nên ông U, phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự ;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Lê Văn U. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Tuyên xử:

- Không chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn U về việc đòi quyền sử dụng đất, diện tích 496,7m2, thuộc thửa 2680, tờ bản đồ số 06, đất toạ lạc tại xã Phú Cường, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp, do ông Dương Văn H đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đất mương lộ theo các mốc 1, 2, 3, 4, 5, 6 trở về mốc 1 (kèm theo sơ đồ đo đạc và văn bản xác nhận chứng nhận của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Tam Nông).

- Ông Lê Văn U và bà Đặng Thị T có trách nhiệm di dời trụ đá, vật kiến trúc và cây cối trên đất (nếu có), để trả lại hiện trạng đất cho ông H tiếp tục sử dụng.

- Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: ông Lê Văn U phải chịu 3.143.000 đồng nhưng ông đã nộp và thanh lý hợp đồng xong (hoá đơn thu tiền đo đạc theo hợp đồng số 645/HĐ.ĐĐ ngày 05/01/2022).

- Án phí dân sự sơ thẩm:

+ Ông Lê Văn U phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 1.117.500 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng đã nộp 1.296.000 đồng theo biên lai thu số 0010374 ngày 29/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Nông. Ông U được nhận lại số tiền chênh lệch là 178.500 đồng.

+ Các ông, bà: Dương Văn H, Nguyễn Thị S, Đặng Thị T, Trần Văn H, Trần Minh P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

7.2 Án phí dân sự phúc thẩm:

- Ông Lê Văn U phải chịu tiền án phí phúc thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số 0013249, ngày 26/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp. Ông U không phải nộp thêm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 335/2023/DS-PT

Số hiệu:335/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về