Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 29/2021/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

BN ÁN 29/2021/DS-PT NGÀY 17/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 17 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 07/2021/TLPT-DS ngày 26 tháng 02 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 01/2021/DS-ST ngày 04 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện P bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 13/2021/QĐXXPT - DS ngày 12 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Tiến H, sinh năm 1987 và chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1990; trú tại: Khu 5, xã T, Huyện P, tỉnh Phú Thọ. (Có mặt) Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Hoang Phúc A, sinh năm 1954; trú tại: Khu 5, xã T, Huyện P, tỉnh Phú Thọ (Văn ban uy quyên ngay 16/11/2020) (Có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn : Ông Ta Gia L - Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Phu Tho va công sư - Đoàn Luật sư tỉnh Phú Thọ. (Có mặt)

Bị đơn: Chị Ngô Thị Như Q, sinh năm 1984; địa chỉ: Khu 5, xã T, Huyện P, tỉnh Phú Thọ. (Văng mặt) Người đại diện theo ủy quyền của bi đơn : Ông Ngô Quang B, sinh năm 1958; trú tại: Khu 5, xã T, Huyện P, tỉnh Phú Thọ (Văn bản ủy quyền ngày 20/4/2021).(Có măt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Sơ giao thông vân tai tinh Phu Tho ; đia chi : Phương Gia Câm , thành phố Viêt Tri, tỉnh Phú Thọ; do ông Nguyên Văn Ng - chưc vu: Giám đốc Ban quản lý dự án xây dựng và bảo trì công trình giao thông là đại diện theo ủy quyề n (Văn ban uy quyên ngay 19/4/2021). (Có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 19/4/2021)

2. Ủy ban nhân dân xã T; do ông Pham Hai Đ - Công chưc tư phap la đai diên theo uy quyên (Văn bản ủy quyền ngày 21/9/2020).(Vắng mặt) 4. Người kháng cáo: Ông Ngô Quang B – Đại diện theo ủy quyền của bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn anh Nguyễn Tiến H,chị Nguyễn Thị P và đại diện theo ủy quyền ông Hoàng Phúc A thống nhất trình bày:

Ngày 28/4/2020, vợ chồng anh H, chị P có đặt vấn đề mua thửa đất số 1977 (Ô QH 03) tờ bản đố số 5, diện tích 154m2 tại địa chỉ: Đồng A, khu 5, xã T, Huyện P, tỉnh Phú Thọ của chị Ngô Thị Như Q, chị Q đồng ý. Hai bên thỏa thuận số tiền mua là 650.000.000đ (Sáu trăm năm mươi triệu đồng) đối với diện tích 154m2 đất ở và nhà, quán. Ngày 28/4/2020 hai bên viết giấy đặt cọc tiền mua đất ở và nhà quán với thỏa thuận cụ thể như trên. Vợ chồng anh chị đã trả tiền đặt cọc trước là 550.000.000đ (Năm trăm năm mươi triệu đồng). Số tiền còn lại, khi nào làm xong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ thanh toán cho chị Q. Chị Q đã nhận 550.000.000đ (Năm trăm năm mươi triệu đồng) và ký vào giấy tờ đặt cọc.

Cùng ngày, hai bên đã đến Văn phòng công chứng Hà Phúc T để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên . Hai bên thoa thuân gia chuyển nhương theo hơp đông la 105.000.000đ (Môt trăm linh năm triêu đông). Chị Q đa tư nguyên ky vao hơp đông c huyển nhương nay va c ác giấy tờ cần thiết khác để anh H, chị P đi lam thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất , hai bên không co khuc măc hay mâu thuân gi.

Ngày 01/6/2020 UBND Huyện P đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh H, chị Q đôi v ới thửa đất nhận c huyển nhương cua chi Quynh . Tuy nhiên, sau khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất anh H đến trả nốt số tiền còn lại là 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) nhưng chị Q không nhận và không chuyển giao nhà, đất theo như hai bên đã thỏa thuận. Chị Q có đề nghị được chuộc lại nhà, đất không chuyển nhượng nữa; anh H, chị P đồng ý với điều kiện chị Q phải thanh toán lại cho anh chị số tiền 850.000.000đ (Tám trăm năm mươi triệu đồng) nhưng chị Q không chấp nhận.

Từ đó đến nay, đã nhiều lần anh H, chị P đề nghị trả số tiền còn thiếu và yêu cầu chị Q chuyển giao các tài sản thỏa thuận chuyển nhượng đã giao kết nhưng chị Q không hợp tác. Hiện nay, chị Q còn khóa cửa phần quán làm trên hành lang giao thông và để các tài sản, đồ đạc không chịu chuyển đi nên anh chị không sử dụng nhà đất nhận chuyển nhượng được.

Vì vậy, nguyên đơn đề nghị Tòa án buộc chị Q phải bàn giao toàn bộ thửa đất, hành lang giao thông cùng các tài sản mà các bên đã thỏa thuận chuyển nhượng trong giấy đặt cọc mua bán viết tay các bên đã ký kết; đề nghị trả cho chị Q số tiền còn thiếu là 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng), không tính lãi. Đê nghi chi Q phai chuyển toàn bộ đồ đạc hiện nay để ở trong nhà quán , lán để xe theo đung cam kêt chuyển nhương ban đâu.

Bị đơn chị Ngô Thị Như Q trình bày:

Chị xác nhận lời trình bày của vợ chồng anh H về việc đề nghị giao kết hợp đồng, việc đặt cọc, nhận tiền đặt cọc, chữ ký, chữ viết tại mục người bán trong giấy đặt cọc là chữ ký, chữ viết của chị. Chị thừa nhận có đến Văn phòng công chứng Hà Phúc T để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất như nguyên đơn trình bày, chị có ký các giấy tờ để anh H làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chị thừa nhận anh H có đến nhà chị 1 lần để trả nốt số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) còn thiếu nhưng chị không đồng ý.

Lý do chị không nhận số tiền còn thiếu, không chuyển giao nhà và đất theo như thỏa thuận là vì chị chỉ chuyển nhượng cho anh H phần diện tích đất là 154m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quán trên đất hành lang giao thông theo như cam kết nhưng chị không chuyển giao đất hành lang giao thông vì đất giao thông chị không được phép chuyển nhượng, do đây là đất của Nhà nước quản lý và không có trong hợp đồng mua bán giữa gia đình anh H và chị.

Nay anh vợ chồng anh H khởi kiện, chị đồng ý chuyển giao diện tích đất là 154m2 và quán trên phần đất này theo thỏa thuận chuyển nhượng giữa hai bên. Đối với phần đất hành lang giao thông và các tài sản trên hành lang giao thông phải trả cho chị, không được tranh chấp với chị về phần đất này.

Tại phiên tòa ngày 14/10/2020, chị Q cho rằng chi xây dưng quan ban bia trên thưa đât nay nên nhà quán theo giây đăt coc đươc hiêu la quan trên phân đât đa đươc câp bia. Vì thế chị bán quán chí nh la ban công trinh trên phâ n đât đươc câp bia chư không phai chi ban quan trên đât hanh lang giao thông . Chị cho rằng quán chuyển nhượng cho anh H, chị P có một phần nằm trên đất hành lang giao thông nên chị đề nghị đập bỏ phần công trình này trả lại đất hành lang giao thông va các công trình trên đât hanh lang giao thông đê chi sư dung con nha anh H vân co lôi đi ra khu dân cư. Ngoài ra , trong quán của chị còn có các tài sản khác chi chưa c huyển đi. Chị đông y theo đê nghi cua Kiêm sat viên vê viêc tạm ngừng phiên tòa để xem xét thẩm định lại thực trạng tài sản và kiểm kê cac tai san cua chi hiên nay đang ơ trong quan.

Ngày 19/11/2020, ông Ngô Quang B đai diên theo uy quyên cua chi Q nôp 01 bản tự khai đề ngày 14/7/2020 của chị Q có nội dung chị chưa nhận số tiền 100 triêu đông cua anh H vì anh H tranh châp lan đê xe vơi chi . Chị đề nghị anh H chỉ được sư dung 154m2 đât đa đươc câp giây chưng nhân quyê n sử dụng đất còn đất hành lang giao thông la do chi tôn tao va chi không đươc quyên c huyển nhương cho ai nên chi không đông y giao cho anh H.

Ủy ban nhân dân xã T trình bày: Viêc chuyển nhương quyên sư dung đât cua hai bên không thông qua chinh quyên đia P. Chị Q có xây dựng lán để xe trên hành lang giao thông không xin phep chinh quyên đia P và việc xây dựng này là trái pháp luât. UBND xa nhiêu lân nhăc nhơ , chưa xư ly vi pham h ành chính đối với ch ị Q . Đất hành lang giao thông đang tranh chấp thuộc quyền quản lý của cơ quan nhà nươc chư không phai cua ca nhân nao . Các trường hợp vi phạm thì phải tháo dỡ công trinh đê tra lai thông thoang cho hanh lang giao thông . UBND xã đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Sơ giao thông vân tai tinh Phu Tho trinh bay : Tuyên đương tinh lô 323G co đoan đương qua khu 5, xã T, huyện Phù Ninh theo tiêu chuẩn đường cấp V thì đất dành cho đườ ng bô la 10m (gôm 1m đât cua đương bô va 9m đât hang lang an toan đương bô ). Theo Nghi đinh 11/2010/NĐ-CP ngay 24/02/2010 của Chính phủ về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ thì phần đất này chỉ để x ây dưng công trinh đương bô ....không đươc sư dung ....làm nơi ở , hoạt động kinh doanh...

Tại bản án dân sự sơ thẩm số:01/2021/DS-ST ngày 04 tháng 01 năm 2021 Tòa án nhân dân Huyện P đã quyết định:

Căn cứ vào các Điều 117, 118, 119, 121, 122, 123, 124, 129, 131, 503 Bô luât dân sư năm 2015; Điều 43 Luât giao thông đương bô ; Điêu 208 Luât đât đai năm 2013; khoản 3 Điều 26, điêm a khoan 1 Điêu 35, khoản 1 Điêu 39, khoản 1 Điều 147, Điều 271 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Xử:

1. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng anh Nguyễn Tiến H, chị Nguyễn Thị P với chị Ngô Thị Như Q được công chứng ngày 28/4/2020 tại Văn phòng công chứng Hà Phúc T là vô hiệu do giả tạo và vi phạm điều cấm của pháp luật.

- Công nhận Giấy đặt cọc tiền mua đất ở và nhà quán ngày 28/4/2020 giữa anh Nguyễn Tiến H, chị Nguyễn Thị P với chị Ngô Thị Như Q có hiệu lực pháp luật.

- Buộc anh Nguyên Tiên H và chị Nguyễn Thị P có trách nhiệm thanh toán cho chị Ngô Thị Như Q số tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất còn thiếu là 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng).

Kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Vơ chông anh Nguyên Tiên H và chị Nguyễn Thị P đươc quyền sư dung đất, nhà cấp 4 và các công trình phụ trợ trên đất của thửa đất số 1977 (Ô QH 03) tờ bản đố số 5, diện tích 154m2 tại địa chỉ: Đồng A, khu 5, xã T, huyện P, tỉnh Phú Thọ đa đươc UBND huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vơ chông anh H, chị P ngày 01/6/2020.

2. Tạm giao cho vợ chồng anh Nguyễn Tiến H và chị Nguyễn Thị P đươc quyên quan ly , sư dụng phần hàng lang an toàn giao thông đường bộ và các công trình trên đất thuộc phía trước của thửa đất số 1977 (Ô QH 03) tờ bản đố số 5, diện tích 154m2 tại địa chỉ: Đồng A, khu 5, xã T, Huyện P, tỉnh Phú Thọ cho đên khi cơ quan co thâm quyên buôc thao dơ, di dơi.

3. Buôc chi Ngô Thi Như Q co trach nhiêm t hu don , di dơi toan bô đô đac thuôc quyên sơ hưu cua minh hiên đang đê trong nha câp 4, lán để xe trên hành lang giao thông thuôc thưa đât sô 1977 (Ô QH 03) tờ bản đố số 5, diện tích 154m2 tại địa chỉ: Đồng A, khu 5, xã T, huyện P, tỉnh Phú Thọ đê ban giao lai nha đât đa c huyển nhương va hanh lang giao thông cho vơ chông anh H quản lý, sư dung.

Danh muc cac tai san cu thê đươc li ệt kê trong Bảng kê tài sản ngày 21/10/2020 (kèm theo bản án).

4. Kiến nghị Chi cục thuế huyện P, tỉnh Phú Thọ tiếp tục thu số tiền thuế còn thiếu theo giá trị thực tế của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 650.000.000đ (Sáu trăm năm mươi triệu đồng).

Bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo, thỏa thuận thi hành án.

Ngày 04/01/2021, ông Ngô Quang B là đại diện theo ủy quyền của bị đơncó đơn kháng cáo với nội dung không đồng ývới quyết định của bản án sơ thẩm về việc tạm giao cho anh H, chị P quản lý hành lang giao thông và công trình trên hành lang giao thông tại khu 5, xã T, huyện P, tỉnh Phú Thọ vì gia đình ông đã tôn tạo, đổ đất ở hành lang giao thông để làm nơi bán hàng, ông chỉ đồng ý giao hành lang giao thông và tài sản trên hành lang giao thông khi nhà nước lấy lại.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông B vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề nghị phía nguyên đơn phải trả lãi đối với số tiền 100.000.000,đ ( một trăm triệu đồng) từ thời điểm chưa trả.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tham gia phiên toà có quan điểm về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán và Hội đồng xét xử, thư ký phiên toà khi giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đơn kháng cáo của đương sự đúng hạn luật định. Hội đồng xét xử đã xét xử đúng nguyên tắc, các bên đương sự đều thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung kháng cáo, đại diện VKS đề nghị: tại cấp phúc thẩm người kháng cáo không bổ sung được tài liệu chứng cứ gì, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo nênđề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tại phiên Tòa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyên đơn cho rằng tính đến thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm xét xử ông B đã quá 01 năm thời hạn ủy quyền nên ông B không có quyền kháng cáo. Đề nghị hội đồng xét xở đình chỉ giải quyết vụ án. Căn cứ vào văn bản uỷ quyền, căn cứ vào điều 140 Bộ luật dân sự, điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự. Đơn kháng cáo của ông Ngô Quang B đúng hạn luật định, hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ngoài nội dung kháng cáo đại diện theo ủy quyền của bị đơn đề nghị phía nguyên đơn phải trả lãi đối với số tiền 100.000.000,đ ( một trăm triệu đồng) từ thời điểm chưa trả. Căn cứ vào quy định tại Điều 293 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị này không thuộc phạm vi xét xử của cấp phúc thẩm nên không xem xét.

[2] Về nội dung kháng cáo của Ngô Quang B, Hội đồng xét xử xét thấy:

Tại Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho rằng chi Q đa đông y c huyển nhương cho nguyên đơn toan bô thưa đât , nhà và các tài san trên phạm vi thửa đất được cấp giấy chứng nhân quyên sư dụng đất và tài sản gắn liền nằm ngoài thửa đất nên đề nghị tòa buộc bị đơn phải có nghĩa vụ chuyển giao toan bô cac tai san nay theo đung thoa thuân ban đâu . Tuy nhiên đại diện theo ủy quyền của bị đơn chỉ thừa nhận việc chuyển nhương phân đât trong giây chưng nhân va cac tai san trên đất, không chuyển nhương đât hanh lang giao thông va đê nghi đươc tiêp tuc sư dung phân đât nay va cac tai san trên đât .Căn cứ vào giây đăt coc tiên mua nha va đât ngay 28/4/2020 do hai bên lập thể hiện về y chi các bên đều thống nhất chuyển nhương phân diên tich đât va nha quan . Tại cấp sơ thẩm chị Q thừa nhận việc ký kết Giây đăt coc là tự nguyện và chị cũng xác nhận chị xây dựng nhà cấp 4 để làm quán bán bia và có lợp lán trên hành lang giao thông để xe cho khách đến uống bia.

Kết quả xem xet thâm đinh tai chô của Toa an cấp sơ thẩm cho thấy môt phân nhà cấp bốn có lấn ra hành lang giao thông và lán để xe đư ợc lợp nối tiếp phần nhà , có xây tường bao quanh và có cửa sắt bên ngoài , muôn vao bên trong nhà thì phai mơ cưa săt khoa bên ngoai như vậy cho thấy đây la bô phân không tach rơi cua cac công trinh nha câp bôn. Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của chị Q thừa nhận từ trước đến nay chị Q mở lối đi duy nhất qua hành lang giao thông ra đường tỉnh lộ, không mở lối đi qua đường của khu dân cư. Ông đề nghị vợ chồng nguyên đơn sử dụng nhà đất chuyển nhượng phải tự mở lối đi ra khu dân cư, không được đi qua đất hành lang giao thông. Điều này là không phù hợp với thực tế. Mặt khác, nguyên đơn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện rõ hướng của thửa đất là hướng ra đường tỉnh lộ. Ngoài ra có căn cứ xác dịnh ngoai thư a đât c huyển nhương cho vợ chồng anh H, chị Q không sư dung thưa đâ t nao bên canh đo nên chi Q đề nghị chỉ c huyển giao cho vợ chồng anh H đât va cac công trinh trong pham vi 154m2 đươc câp giây chưng nhân quyên sư dung đ ất còn phần đất hành lang giao thông va lan đê xe trên đât chi phai đươc sư dung la không phu hơp . Theo đó, quan điêm cua nguyên đơn vê viêc hai bên thoa thuân c huyển nhương toan bô nha trên đât va công trình phụ trợ, bao gôm quan bán hàng, lán để xe trên là có căn cứ.

Theo cung câp cua Sơ giao thông vân tai tinh Phu Tho thi phân đât hang lang an toan đương bô nhăm đam bao an toan giao thông va bao vê công trinh đương bô , không đươc sư dung ph ần đất này trái mục đích quy định . Tại Điều 43 Luât giao thông đương bô thi hanh lang giao thông không đươc xây dưng cac công trinh hang quán nên viêc xây dưng cua chi Q là trái pháp luật.

Căn cư Điêu 208 Luât đât đai năm 2013 thì trách nhiệm phát hiện , ngăn chăn và xử lý đối với hành vi xây dựng trái phép , sư dung không đung muc đich đôi vơi phân đât nay thuôc Chu tich UBND xa T. Măc du thưa đât cua chi Q ngay trươc công Uy ba n nhân dân xa T nhưng năm 2014 chị Q xây dưng nha câp 4 làm quán bán hàng, năm 2015 chị lợp lán prô ximăng , xây tương hai bên , dưng côt nhưa , cưa tôn trên đât hanh lang giao thông không bao cao chinh quyên đia P hay cơ quan nha nước có thẩm quyền và từ khi sử dụng không có ai l ập biên bản hay xử phạt gì đây là thiếu sót của chính quyền địa P. Tuy nhiên , thưc tê tai đia P viêc xây dưng lân chiêm hành lang giao thông diễn ra phổ biến nên việc xử l ý đối với cá nhân chị Q là điêu kho thưc hiên. Trên thực tế, phân đât hang lang an toan giao thông đương bô va các công trình trên đất là bộ phận không tách rời của các công trình nhà cấp bốn . Từ những căn cứ trên, Tòa án cấp sơ thẩm xác định nguyên đơn và bị đơn thỏa thuận chuyển nhương toan bô nha trên đât va công trinh phu trơ , bao gôm quán bán hàng, lán để xe xây trên hành lang giao thông và tạm giao cho anh H, chị P quản lý sử dụng cho đến khi cơ quan có thẩm quyền buộc tháo dỡ, di dời là có căn cứ.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn kháng cáo cho rằng chỉ bán cho anh H diện tích đất 154m2 theo sổ đỏ và giấy mua bán có đường đi lối lại ở phía trước nhà anh Thọ. Đối với phần hành lang giao thông nhà nước quản lý nguyên đơn chỉ đồng ý trả lại khi nào nhà nước lấy lại vì nguyên đơn đã tôn tạo đổ đất làm chỗ bán hàng. HĐXX xét thấy: Như đã phân tích ở trên, việc chị Q xây dựng quán bán hàng và lán để xe trên hành lang giao thông là trái pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án cả ông H và chị Q đều không yêu cầu gì đối với phần chị Q đắp đất tôn tạo hành lang giao thông nên Tòa án cấp sơ thẩm không giải quyết là có căn cứ.

Đối với phần diên tich c Hển nhượng tăng lên so với giấy chứng nhận được câp đã được Tòa án xác minh làm rõ và các bên đương sự thừa nhận là do quá t rình sư dung đât chi Q xây dưng công trinh nhà ở , lán để xe lân ra đương giao thông khu dân cư va phân diên tich phia sau thuôc đât UBND xa quan ly đa đươc quy hoach làm mương thoát nước ra khu vực Lỗ K . Do đo , Tòa án cấp sơ thẩm giao cho vơ chông anh H đươc tiêp tuc quan ly , sư dung phân đât thưa nay cho đên khi cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xư ly va thu hôi là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Trong vụ án này, lẽ ra không cần tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng anh Nguyễn Tiến H, chị Nguyễn Thị P với chị Ngô Thị Như Q được công chứng ngày 28/4/2020 tại Văn phòng công chứng Hà Phúc T là vô hiệu do giả tạo và vi phạm điều cấm của pháp luật vì quá trình giải quyết các bên đương sự đều thống nhất thừa nhận việc thỏa thuận mua bán thưa đât sô 1977 (Ô QH 03) tờ bản đố số 5, diện tích 154m2 tại địa chỉ: Đồng A, khu 5, xã T, huyện P, tỉnh Phú Thọ, mặt khác thửa đất này cũng đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các bên đều thống nhất không có ý kiến gì, mà chỉ cần kiến nghị cơ quan thuế thu thuế phần còn lại chưa nộp. Việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đấtvô hiệu mà không đưa Văn phòng công chứng Hà Phúc T vào tham gia tố tụng là thiếu sót. Tuy nhiên, việc thiếu sót của Tòa cấp sơ thẩm không làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của các đương sự nên cần rút kinh nghiệm.

[4]Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của đại diện theo ủy quyền của bị đơn. Kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.

Không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của ông Ngô Quang B là đại diện theo ủy quyền của bị đơn chị Ngô Thị Như Q.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 01/2021/DS – ST ngày 04/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện P.

Căn cứ vào các Điều 117, 118, 119, 121, 122, 123, 124, 129, 131, 503 Bô luât dân sư năm 2015; Điều 43 Luât giao thông đương bô ; Điêu 208 Luât đât đai năm 2013; khoản 3 Điều 26, điêm a khoan 1 Điêu 35, khoản 1 Điêu 39, khoản 1 Điều 147, 148, Điều 271 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Xử:

1. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng anh Nguyễn Tiến H, chị Nguyễn Thị P với chị Ngô Thị Như Q được công chứng ngày 28/4/2020 tại Văn phòng công chứng Hà Phúc T là vô hiệu do giả tạo và vi phạm điều cấm của pháp luật.

- Công nhận giấy đặt cọc tiền mua đất ở và nhà quán ngày 28/4/2020 giữa anh Nguyễn Tiến H, chị Nguyễn Thị P với chị Ngô Thị Như Q có hiệu lực pháp luật.

- Buộc anh Nguyên Tiên H và chị Nguyễn Thị P có trách nhiệm thanh toán cho chị Ngô Thị Như Q số tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất còn thiếu là 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng).

- Vơ chông anh Nguyên Tiên H và chị Nguyễn Thị P đươc quyền sư dung đất, nhà cấp 4 và các công trình phụ trợ trên đất của thửa đất số 1977 (Ô QH 03) tờ bản đố số 5, diện tích 154m2 tại địa chỉ: Đồng A, khu 5, xã T, huyện P, tỉnh Phú Thọ đa đươc UBND huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ cấp giấy chưng nhân quyên sư dung đât cho vơ chông anh H, chị P ngày 01/6/2020.

Kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Tạm giao cho vợ chồng anh Nguyễn Tiến H và chị Nguyễn Thị P đươc quyên quản lý , sư dung phân hang lang an toàn giao thông đường bộ có các công trình trên đất thuộc phía trước của thửa đất số 1977 (Ô QH 03) tờ bản đố số 5, diện tích 154m2 tại địa chỉ: Đồng A, khu 5, xã T, huyện P, tỉnh Phú Thọ cho đên khi c ơ quan co thâm quyên buôc thao dơ, di dơi.

3. Buôc chi Ngô Thi Như Q có trách nhiệm t hu don , di dơi toan bô đô đac thuôc quyên sơ hưu cua minh hiên đang đê trong nha câp 4, lán để xe trên hành lang giao thông thuôc thưa đât sô 1977 (Ô QH 03) tờ bản đố số 5, diện tích 154m2 tại địa chỉ: Đồng A, khu 5, xã T, huyện P, tỉnh Phú Thọ đê ban giao lai nha đât đa c huyển nhương va hanh lang giao thông cho vơ chông anh H quản lý, sư dung.

Danh muc cac tai san cụ thể được liệt kê trong Bảng kê tài sản ngày 21/10/2020 (kèm theo bản án).

4. Kiến nghị Chi cục thuế huyện P, tỉnh Phú Thọ tiếp tục thu số tiền thuế còn thiếu theo giá trị thực tế của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 650.000.000đ (Sáu trăm năm mươi triệu đồng).

5. Về án phí dân sư phúc thâm: Buôc chi Ngô Thi Như Q do ông Ngô Quang B là đại diện theo ủy quyền phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghin đông) tiên an phi dân sư phúc thâm. Xác nhận ông B đã nộp 300.000đ tiềm tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số 0001682 ngày 14/01/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện P.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị Viện kiểm sát kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7,7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

508
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 29/2021/DS-PT

Số hiệu:29/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về