Bản án về tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính số 70/2023/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 70/2023/KDTM-ST NGÀY 08/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH

Ngày 08 tháng 8 năm 2023, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 01/2023/TLST-KDTM ngày 04/01/2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 307/2023/QĐXXST-KDTM ngày 16/6/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 264/2023/QĐST-KDTM ngày 12/7/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty C2 Trụ sở: Tầng 28, Saigon Trade C, số C T, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông C1, Y-C, chức vụ: Tổng giám đốc Ông C1, Y-Chen ủy quyền cho: Bà Diệp Yến B, sinh năm: 1979 - chức vụ: Trưởng phòng thu hồi công nợ (Giấy ủy quyền số 01A.2023/GUQ-COL ngày 03/01/2023) Người đại diện theo ủy quyền: Chị Nguyễn Thị Tú T, sinh năm: 2000; Địa chỉ: Tầng B, Saigon Trade C, số C T, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. (Theo Giấy ủy quyền số 438.2023/GUQ-COL ngày 07/8/2023) (Chị T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

2. Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn S Trụ sở: C đường L, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Thanh M - Chức danh: Giám đốc Địa chỉ: Ấp A, xã P, huyện C, tỉnh Long An. (Ông M vắng mặt tại phiên tòa)

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phan Thanh M, sinh năm: 1977; Địa chỉ: Ấp A, xã P, huyện C, tỉnh Long An. (Ông M vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 07/12/2022, đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện ngày 08/8/2023, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án - Nguyên đơn Công ty C2 có người đại diện theo ủy quyền là chị Nguyễn Thị Tú T trình bày:

Công ty C2 (sau đây gọi tắt là “Công ty chúng tôi hoặc Công ty C2”) là tổ chức tín dụng phi ngân hàng có chức năng cho thuê tài chính theo quy định của pháp luật Việt Nam. Công ty TNHH S (sau đây gọi tắt là “Công ty S”) là khách hàng thuê tài chính của Công ty C2.

Do Công ty TNHH S có nhu cầu sử dụng phương tiện máy móc phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và đề nghị Công ty C2 tài trợ tài chính nên hai bên đã ký kết Hợp đồng cho thuê tài chính số F201123802 vào ngày 19/11/2020 (sau đây gọi tắt là “Hợp đồng thuê”).

Theo đó, các tài sản mà Công ty TNHH S có nhu cầu thuê tài chính là 03 bộ Máy thổi màng nhựa (sau đây gọi tắt là “Tài sản thuê”).

Cùng ngày 19/11/2020, để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán tiền thuê của Công ty TNHH S theo Hợp đồng thuê, Công ty C2 chấp nhận Thư bảo lãnh cá nhân của ông Phan Thanh M. Theo đó, trường hợp Công ty TNHH S không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền thuê theo Hợp đồng thuê, ông Phan Thanh M cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền thuê thay cho Công ty TNHH S theo nội dung Thư bảo lãnh đã ký.

Để thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính nêu trên, Công ty C2 đã ký hợp đồng mua bán số F201123802-PC ký ngày 19/11/2020 để mua các tài sản nêu trên từ Công ty TNHH S và cho Công ty TNHH S thuê lại chính các tài sản này. Đây là hình thức mua và cho thuê lại theo quy định pháp luật về hoạt động cho thuê tài chính.

Ngày 23/11/2020, Công ty TNHH S đã ký Giấy chứng nhận nghiệm thu tài sản thuê.

Hợp đồng thuê được cấp Giấy chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 01/12/2020.

Giá mua tài sản là 1.200.000.000 đồng, trong đó Công ty TNHH S trả trước 300.000.000 đồng và Công ty C2 tài trợ 900.000.000 đồng (“Giá trị thuê”). Thời hạn thuê của Hợp đồng thuê là 30 tháng, kể từ ngày 23/11/2020 đến ngày 25/05/2023.

Lãi suất thuê được áp dụng cho Hợp đồng thuê được quy định cụ thể tại Thông báo bắt đầu thuê mà Công ty C2 đã phát hành và tuân thủ đúng quy định pháp luật về lãi suất áp dụng cho hoạt động thuê tài chính tại Việt Nam. Theo đó, lãi suất thuê được áp dụng là lãi suất cố định 15.6%/năm và không thay đổi trong suốt quá trình thuê.

Hằng tháng, Công ty TNHH S phải thanh toán cho Công ty C2 tiền thuê bao gồm một phần vốn gốc và khoản tiền lãi được tính trên dư nợ giảm dần cho đến khi trả đủ số tiền vốn gốc mà Công ty C2 đã tài trợ cùng các khoản lãi theo Hợp đồng thuê. Trước khi Công ty TNHH S trả hết toàn bộ vốn gốc cùng các khoản lãi, Công ty C2 vẫn là chủ sở hữu của tài sản thuê và là người đứng tên trên toàn bộ các hóa đơn, chứng từ, các giấy tờ pháp lý khác liên quan đến quyền sở hữu,... đối với Tài sản thuê. Căn cứ theo các quy định pháp luật hiện hành và Điều 26 của Hợp đồng thuê, nếu Công ty TNHH S vi phạm nghĩa vụ thanh toán Tiền thuê, hay vi phạm bất cứ một điều khoản hoặc điều kiện nào của Hợp đồng thuê, hay bị mất khả năng thanh toán, Công ty C3 đều có quyền chấm dứt Hợp đồng thuê trước thời hạn, thu hồi Tài sản thuê và yêu cầu Công ty TNHH S1 bị Mỹ Mỹ bồi thường thiệt hại (nếu có).

Trong quá trình thực hiện Hợp đồng thuê, Công ty TNHH S1 bị Mỹ Mỹ thường xuyên thanh toán không đúng hạn, mặc dù Công ty C2 đã nhiều lần yêu cầu Công ty TNHH S thanh toán.

Ngày 04/10/2022, do Công ty TNHH S đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thanh toán tiền thuê theo quy định tại Điều 26 của Hợp đồng thuê, Công ty C3 đã phát hành Thông báo chấm dứt Hợp đồng thuê và thu hồi Tài sản thuê, theo đó yêu cầu Công ty TNHH S thanh toán tổng số tiền còn thiếu theo Hợp đồng thuê tính đến ngày 07/10/2022 (ngày chính thức chấm dứt Hợp đồng thuê) là 426.638.856 đồng. Theo đó, thời hạn thanh toán là trong vòng ba (03) ngày kể từ ngày nhận được Thông báo trên.

Sau khi chấm dứt Hợp đồng thuê, Công ty C2 đã nhiều lần liên hệ với Công ty TNHH S để yêu cầu thanh toán các khoản tiền thuê còn nợ. Tuy nhiên, cho đến nay, phía Công ty TNHH S1 bị Mỹ Mỹ vẫn chưa thực hiện việc thanh toán đầy đủ các khoản tiền trên cho Công ty C2.

Ngày 08/11/2022, Công ty C2 đã phát hành T1 yêu cầu thanh toán về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thanh toán tiền thuê để yêu cầu Người bảo lãnh là ông Phan Thanh M thanh toán theo nội dung Thư bảo lãnh cá nhân đã ký. Tuy nhiên ông Phan Thanh M cũng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thanh toán như đã cam kết.

Vì vậy, Công ty C2 khởi kiện vụ án ra Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu giải quyết những nội dung sau:

Buộc Công ty TNHH S thanh toán cho Công ty C2 số tiền thuê còn nợ tính đến ngày 08/08/2023 là 486.108.981 đồng (Bốn trăm tám mươi sáu triệu một trăm linh tám nghìn chín trăm tám mươi một đồng), trong đó bao gồm:

- Nợ gốc là: 364.500.000 đồng;

- Nợ lãi trong hạn và các khoản phải thu khác tính đến ngày chấm dứt Hợp đồng thuê 07/10/2022 là: 62.138.856 đồng:

- Nợ lãi quá hạn từ ngày 07/10/2022 đến ngày 08/08/2023 là: 59.470.125 đồng.

Buộc Công ty TNHH S thanh toán cho Công ty C2 tiền lãi chậm trả phát sinh từ ngày 09/08/2023 tính trên nợ gốc với mức lãi suất quá hạn thỏa thuận trong các hợp đồng cho thuê tài chính cho đến khi thanh toán xong nợ.

Trường hợp Công ty TNHH S không thanh toán đầy đủ khoản tiền nêu trên, buộc Người bảo lãnh là ông Phan Thanh M có trách nhiệm thanh toán cho Công ty C2 theo như nội dung Thư bảo lãnh cá nhân đã ký ngày 19/11/2020 cho đến khi hết số tiền còn nợ.

- Bị đơn Công ty Trách nhiệm Hữu hạn S vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay và không có bất kỳ văn bản nào phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phan Thanh M vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay và không có bất kỳ văn bản nào phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Kim sát viên Viện kim sát nhân dân huyện Bình Chánh tham gia phiên tòa phát biu về việc tuân theo pháp luật t tụng và phát biu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

+ Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, thời hạn chuẩn bị xét xử chưa đảm bảo theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Luật tổ chức tín dụng; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quoc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn Công ty C2 (gọi tắt là Công ty C2 khởi kiện tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính đối với bị đơn Công ty Trách nhiệm Hữu hạn S (gọi tắt là Công ty S). Bị đơn Công ty S có trụ sở tại huyện B nên căn cứ khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Về áp dụng pháp luật: Do giao dịch giữa các đương sự xác lập vào thời điểm Luật tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực nên Tòa án áp dụng Luật tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giải quyết vụ án.

[4] Về sự vắng mặt của các đương sự:

- Đối với người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có chị Nguyễn Thị Tú T có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với bị đơn Công ty S và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phan Thanh M: Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự các đương sự này nhưng vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[5] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc Công ty S thanh toán cho Công ty C2 số tiền thuê còn nợ tính đến ngày 08/08/2023 là 486.108.981 đồng (Bốn trăm tám mươi sáu triệu một trăm linh tám nghìn chín trăm tám mươi một đồng), trong đó bao gồm: Nợ gốc là: 364.500.000 đồng; nợ lãi trong hạn và các khoản phải thu khác tính đến ngày chấm dứt Hợp đồng thuê 07/10/2022 là: 62.138.856 đồng và nợ lãi quá hạn từ ngày 07/10/2022 đến ngày 08/08/2023 là: 59.470.125 đồng. Buộc Công ty S thanh toán cho Công ty C2 tiền lãi chậm trả phát sinh từ ngày 09/08/2023 tính trên nợ gốc với mức lãi suất quá hạn thỏa thuận trong các hợp đồng cho thuê tài chính cho đến khi thanh toán xong nợ. Trường hợp Công ty S không thanh toán đầy đủ khoản tiền nêu trên, buộc người bảo lãnh là ông Phan Thanh M có trách nhiệm thanh toán cho Công ty C2 theo như nội dung Thư bảo lãnh cá nhân đã ký ngày 19/11/2020 cho đến khi hết số tiền còn nợ.

Nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu khởi kiện Trường hợp Công ty S không thanh toán đầy đủ số tiền thuê còn nợ nêu trên, buộc Công ty S giao trả toàn bộ Tài sản thuê bao gồm 03 bộ Máy thổi màng nhựa cho Công ty C2 để xử lý, thu hồi nợ.

[6] Còn bị đơn Công ty S và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phan Thanh M mặc dù đã được Tòa án triệu tập đến để ghi nhận ý kiến, tiến hành thủ tục giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ cũng như việc tham gia phiên tòa xét xử giải quyết vụ án với nguyên đơn nhưng các đương sự này vẫn vắng mặt.

[7] Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nhận định như sau:

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, phía bị đơn không có bất kỳ phản hồi nào về chứng cứ, lời trình bày, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu khởi kiện cũng như tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp; tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập để làm cơ sở xem xét giải quyết vụ án.

Qua xem xét Hợp đồng cho thuê tài chính số F201123802 ký ngày 19/11/2020 giữa Công ty C2 và Công ty S có cơ sở xác định giữa các bên có thỏa thuận là Công ty C2 cho Công ty S thuê tài chính là 03 bộ Máy thổi màng nhựa. Để thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính nêu trên, Công ty C2 đã ký hợp đồng mua bán số F201123802-PC ký ngày 19/11/2020 để mua các tài sản nêu trên từ Công ty S và cho Công ty S thuê lại chính các tài sản này. Đây là hình thức mua và cho thuê lại theo quy định pháp luật về hoạt động cho thuê tài chính; trong đó tổng giá trị 03 tài sản thuê này là 1.200.000.000 đồng, Công ty S đã thanh toán 300.000.000 đồng, còn lại Công ty C2 cho Công ty S thuê giá trị tài sản là 900.000.000 đồng.

Ngày 23/11/2020 Công ty S đã ký Giấy chứng nhận nghiệm thu tài sản thuê. Đến ngày 24/11/2020 Công ty C2 ban hành Thông báo bắt đầu thuê. Đến ngày 01/12/2020 Hợp đồng thuê được cấp Giấy chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm.

[7.1] Về nợ gốc: Căn cứ theo Thông báo thanh toán thì tính đến ngày 07/10/2022 Công ty S còn nợ Công ty C2 nợ gốc là 364.500.000 đồng.

[7.2] Về lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn: Căn cứ theo khoản 6.7 Điều 6 của Hợp đồng cho thuê tài chính số F201123802 ký ngày 19/11/2020 thì các bên có thỏa thuận lãi suất quá hạn bằng 1,5 lần lãi suất thuê trong hạn áp dụng ngay trước thời điểm chuyển sang nợ quá hạn.

Qua xem xét các tài liệu do nguyên đơn cung cấp thể hiện do Công ty S vi phạm nghĩa vụ thanh toán nhiều lần nên kể từ ngày 07/10/2022 chuyển sang nợ quá hạn; trước ngày 07/10/2022 mức lãi suất trong hạn là 15,6%, do đó mức lãi suất quá hạn là 23% là phù hợp với quy định của Luật tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) [8] Về nghĩa vụ bảo lãnh: Theo Thư bảo lãnh cá nhân do ông Phan Thanh M ký ngày 19/11/2020, trường hợp Công ty S không thanh toán đầy đủ khoản tiền nợ thì buộc người bảo lãnh là ông Phan Thanh M có trách nhiệm thanh toán cho Công ty C2 theo như nội dung Thư bảo lãnh cá nhân đã ký ngày 19/11/2020 cho đến khi hết số tiền còn nợ.

[9] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty C2 đối với bị đơn Công ty S, buộc bị đơn Công ty S thanh toán số tiền còn nợ tính đến ngày 08/08/2023 là 486.108.981 đồng (Bốn trăm tám mươi sáu triệu một trăm linh tám nghìn chín trăm tám mươi một đồng), trong đó bao gồm: Nợ gốc là: 364.500.000 đồng; nợ lãi trong hạn và các khoản phải thu khác tính đến ngày chấm dứt Hợp đồng thuê 07/10/2022 là: 62.138.856 đồng và nợ lãi quá hạn từ ngày 07/10/2022 đến ngày 08/08/2023 là: 59.470.125 đồng. Buộc Công ty S thanh toán cho Công ty C2 tiền lãi chậm trả phát sinh từ ngày 09/08/2023 tính trên nợ gốc với mức lãi suất quá hạn thỏa thuận trong các hợp đồng cho thuê tài chính cho đến khi thanh toán xong nợ. Trường hợp Công ty S không thanh toán đầy đủ khoản tiền nêu trên, buộc người bảo lãnh là ông Phan Thanh M có trách nhiệm thanh toán cho Công ty C2 theo như nội dung Thư bảo lãnh cá nhân đã ký ngày 19/11/2020 cho đến khi hết số tiền còn nợ. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[10] Về án phí: Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã tạm nộp.

[11] Xét lời đề nghị của đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 233, Điều 244, Điều 259, Điều 264, Điều 267 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Luật tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tun xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty C2 đối với bị đơn Công ty TNHH S về việc tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính.

Buộc Công ty TNHH S thanh toán cho Công ty C2 số tiền nợ gốc là 364.500.000 đồng và tiền lãi trong hạn, các khoản phải thu, lãi quá hạn tính từ ngày 07/10/2022 đến ngày 08/08/2023 là 121.608.981 đồng.

Kể từ ngày 09/8/2023 Công ty TNHH S thanh toán cho Công ty C2 tiền lãi chậm trả phát sinh tính trên nợ gốc với mức lãi suất quá hạn thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính cho đến khi thanh toán xong nợ.

Trường hợp Công ty TNHH S không thanh toán đầy đủ khoản tiền còn nợ thì người bảo lãnh là ông Phan Thanh M có trách nhiệm thanh toán cho Công ty C2 theo như nội dung Thư bảo lãnh cá nhân đã ký ngày 19/11/2020 cho đến khi hết số tiền còn nợ.

Các đương sự thực hiện việc giao nhận tiền tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

2. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơ Công ty C2 đối với bị đơn Công ty TNHH S về việc giao trả toàn bộ Tài sản thuê bao gồm 03 bộ Máy thổi màng nhựa cho Công ty C2 để xử lý, thu hồi nợ.

3. Về án phí:

3.1 Bị đơn Công ty TNHH S phải chịu án phí sơ thẩm là 23.444.359 đồng (Hai mươi ba triệu bốn trăm bốn mươi bốn nghìn ba trăm năm mươi chín đồng).

3.2 Nguyên đơn Công ty C2 được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 10.707.887 đồng (Mười triệu bảy trăm lẻ bảy nghìn tám trăm tám mươi bảy đồng) đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0042335 ngày 30/12/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính số 70/2023/KDTM-ST

Số hiệu:70/2023/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 08/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về