Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 80/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 80/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/11/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 12/11/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 271/2021/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2021 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 157/2021/QĐXXST-DS ngày 18/10/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1987 (có mặt);

Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố Q, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Hiện cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn Đ, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

- Bị đơn: Anh Dương Văn C, sinh năm 1975 (có mặt);

Nơi cư trú: Tổ dân phố Q, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày: Chị kết hôn với anh Dương Văn C ngày 10/11/2011, trước khi cưới có được tìm hiểu, tự nguyện thỏa thuận, đăng ký kết hôn tại UBND xã P nay là thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến tháng 12/2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống và trong công việc làm ăn hàng ngày vợ chồng thường bất đồng quan điểm dẫn đến cãi nhau, không bảo được nhau để cùng làm ăn phát triển kinh tế, xây dựng hạnh phúc gia đình. Vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ vợ chồng từ tháng 12/2019. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Dương Lê Hồng Q, sinh ngày 02/10/2008 và Dương Quân B, sinh ngày 19/9/2011, hiện các con đang ở cùng chị, các con khỏe mạnh và phát triển bình thường. Nay ly hôn chị xin nuôi cả hai con; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản gì đáng giá, nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Dương Văn C trình bày: Chị H trình bày về thời gian kết hôn và quá trình mâu thuẫn là đúng. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn anh đồng ý ly hôn chị H. Về con chung: Như chị H trình bày là đúng; Nay ly hôn anh xin nuôi một con, còn để chị H nuôi một con, nếu chị H nuôn con trai thì anh nuôi con gái, nếu chị H nuôi con gái thì anh nuôi con trai; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản gì đáng giá, nên anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà hôm nay chị H có mặt giữ nguyên yêu cầu trên và trình bày thêm:

Hiện chị đang làm công nhân tại Công ty Hồng Hải, khu công nghiệp Vân Trung, thu nhận bình quân khoảng 11.000.000đ/ tháng hiện ba mẹ con đang ở nhờ gia đình bố mẹ đẻ chị tại tổ dân phố T, thị trấn Đ, huyện Lục Nam, tirh Bắc Giang, điều kiện kinh tế gia đình khá giả, chị cam đoan sẽ đảm bảo việc chăm sóc và nuôi dưỡng con tốt. Anh C có mặt giữ nguyên yêu cầu trên.

Phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa: Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân dân, các đương sự trong suốt quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay chị H và anh C đều có mặt. Do vậy đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của pháp luật. Đề nghị xét xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị H với anh C; Về con chung: xử giao chị H nuôi cả hai con chung; Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản: Cả chị H và anh C đều không đề nghị giải quyết, nên đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết; gia đình chị H, anh C thuộc diện hộ cận nghèo nên miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm cho chị H. Ngoài ra còn đề nghị tuyên quyền kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, phạm vi khởi kiện, thẩm quyền giải quyết và thủ tục tố tụng: Tại đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Phạm Thị H, sinh năm 1987; Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố Q, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, hiện cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn Đ, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang; khởi kiện xin ly hôn đối với anh Dương Văn C, sinh năm 1975; Nơi cư trú: Tổ dân phố Q, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Nội dung: Chị H xin được ly hôn anh C, đề nghị Tòa án giải quyết về con chung, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản. Như vậy đây là quan hệ pháp luật tranh chấp hôn nhân và gia đình, đề nghị xin được ly hôn, đề nghị giải quyết về con chung, không đề nghị giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.

Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay chị H và anh C đều có mặt. Nên HĐXX áp dụng Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự tiếp tục xét xử vụ án theo pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị H kết hôn với anh Dương Văn C ngày 10/11/2011, trên cơ sở tự nguyện hợp pháp, đăng ký kết hôn tại UBND xã P nay là thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến tháng 12/2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống vợ chồng thường bất đồng quan điểm dẫn đến cãi nhau, không bảo được nhau để cùng xây dựng hạnh phúc gia đình. Vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ vợ chồng từ tháng 12/2019. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn cả chị H và anh C đều thỏa thuận xin được thuận tình ly hôn. HĐXX xét thấy việc thỏa thuận, thuận tình ly hôn giữa chị H với anh C là hoàn toàn tự nguyện không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội cần chấp nhận; xét là phù hợp Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về nuôi con chung: Quá trình chung sống chị H và anh C sinh được 02 con chung là Dương Lê Hồng Q, sinh ngày 02/10/2008 và Dương Quân B, sinh ngày 19/9/2011, hiện hai con đang ở cùng chị H, các con khỏe mạnh và phát triển bình thường. Nay ly hôn chị H xin được nuôi cả hai con, còn anh C xin nuôi một con; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con. HĐXX xét thấy phía chị H đang ở nhờ bố mẹ đẻ, có việc làm thu nhập ổn định, điều kiện nuôi con tốt hơn, anh C lao động tự do “phu hồ” công việc không ổn định, gia đình thuộc diện hộ cận nghèo; mặt khác cháu Q và cháu B đều có nguyện vọng muốn ở với mẹ; nên để bảo đảm quyền lợi mọi mặt của con trẻ, phù hợp với nguyện vọng của các con; cần giao chị H nuôi cả hai con. Về cấp dưỡng nuôi con, các bên không đề nghị Tòa án giải quyết, nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết, xét là phù hợp Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về chia tài sản: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay cả chị H và anh C đều không đề nghị Tòa án giải quyết. Nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết. Nếu sau này có sảy ra tranh chấp về tài sản, Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

[2.4] Về án phí: Chị H gia đình thuộc diện hộ cận nghèo nên miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm cho chị H. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

* Áp dụng Điều 28; 35; 147; 227; 235; 264; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều 55; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Phạm Thị H và anh Dương Văn C.

2/ Về con chung: Xử giao chị Phạm Thị H nuôi hai con chung là Dương Lê Hồng Q, sinh ngày 02/10/2008 và Dương Quân B, sinh ngày 19/9/2011; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con; anh C được quyền thăm nom con sau khi đã ly hôn, không ai được cản trở anh C thực hiện quyền này.

3/ Về án phí: Miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm cho chị H. Hoàn trả chị H 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai thu số 0012419 ngày 07/10/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

Báo cho các đương sự có mặt biết, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Án xử sơ thẩm công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 80/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:80/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về