Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 54/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 54/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 30 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 83/2022/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2022 về Tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46A/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2022 giữa:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị D, sinh năm 1999; Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã V, thành phố T1, tỉnh T1.

Chỗ ở hiện nay: Thôn H, xã V, thành phố T1, tỉnh T1.

- Bị đơn: Anh Đào Xuân M, sinh năm 1995;

Nơi cư trú: Thôn T, xã V, thành phố T1, tỉnh T1.

(Tại phiên tòa vắng mặt chị Trần Thị D và anh Đào Xuân M).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Trần Thị D trình bày và có yêu cầu như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị D và anh Đào Xuân M tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND xã V, thành phố T1, tỉnh T1 ngày 09/8/2017. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên va chạm cãi nhau. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 đến nay, không quan tâm đến nhau. Nay chị D xác định tình cảm vợ chồng giữa chị D và anh M không còn, mâu thuẫn của vợ chồng đã trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ. Việc ly hôn, chị D đã suy nghĩ kỹ và hoàn toàn tự nguyện. Chị D đề nghị Tòa án giải quyết cho chị D được ly hôn anh M.

- Về con chung: Chị Trần Thị D và anh Đào Xuân M có một con chung là Đào Ngọc Kim A, sinh ngày 28/9/2017. Ly hôn, chị D xin trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị D không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về chia tài sản: Chị Trần Thị D và anh Đào Xuân M không có tài sản chung, không vay nợ chung, chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của vợ chồng.

* Bị đơn anh Đào Xuân M trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Đào Xuân M và chị Trần Thị D được tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn UBND xã V, thành phố T1 ngày 09/8/2017. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống đến năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn do hai bên không cùng tiếng nói, hay cãi nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2019 cho đến nay. Anh M đề nghị Tòa án giải quyết cho anh M và chị D được ly hôn.

- Về con chung: Anh Đào Xuân M và chị Trần Thị D có một con chung là Đào Ngọc Kim A, sinh ngày 28/9/2017. Ly hôn, chị D xin trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh M không đồng ý. Việc cấp dưỡng nuôi con chung anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về chia tài sản: Anh Đào Xuân M và chị Trần Thị D tự thỏa thuận giải quyết về tài sản, vợ chồng không vay nợ chung. Anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của vợ chồng.

* UBND xã V, thành phố T1 cung cấp:

Anh Đào Xuân M và chị Trần Thị D đều có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn T, xã V, thành phố T1 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, thành phố T1 vào ngày 09/8/2017.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn T, xã V khoảng 01 tháng thì vợ chồng chuyển về nhà bố mẹ đẻ chị D tại thôn H, xã V ở. Vợ chồng chung sống có phát sinh mâu thuẫn, nhưng mâu thuẫn cụ thể như thế nào thì địa phương không biết. Vợ chồng có 01 con chung là cháu Đào Ngọc Kim A, sinh ngày 28/9/2017, hiện tại cháu Kim Anh đang ở cùng chị D. Vợ chồng có tài chung không, có vay ai tài sản gì không thì địa phương không biết.

* Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến:

1. Về tố tụng:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Thẩm phán đã xác định đúng thẩm quyền và thụ lý vụ án; thực hiện đầy đủ các thủ tục cấp, tống đạt các văn bản tố tụng, quyết định đưa vụ án ra xét xử và thời hạn chuẩn bị xét xử được thực hiện đúng theo thủ tục tố tụng dân sự.

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Về thành phần tham gia xét xử và việc tiến hành thủ tục tố tụng tại phiên tòa được thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật.

- Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến nay nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình, có bản tự khai, giao nộp các tài liệu, chứng cứ tham gia đầy đủ theo triệu tập của Tòa án phục vụ cho việc giải quyết vụ án.

2. Về nội dung:

- Về hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị D được ly hôn anh Đào Xuân M.

- Về nuôi con chung: Giao cho chị Trần Thị D trực tiếp nuôi dưỡng con Đào Ngọc Kim A, sinh ngày 28/9/2017, anh Đào Xuân M không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về chia tài sản: Không đặt ra giải quyết.

- Về án phí: Chị Trần Thị D phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

I. Về tố tụng: Chị Trần Thị D và anh Đào Xuân M đều có đơn đề nghị xin được vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vụ án theo trình tự vắng mặt chị D và anh M.

II. Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh M được tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị D và anh M đều trình bày là vợ chồng chung sống đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, vợ chồng thường xảy ra va chạm cãi nhau, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Chị D xin ly hôn anh M đồng ý ly hôn. Xét thấy trên thực tế cuộc sống chung giữa chị D và anh M đã không còn tồn tại, tình yêu thương đối với nhau không còn, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy chấp nhận nguyện vọng xin ly hôn của chị D, xử cho chị D được ly hôn anh M.

[2] Về nuôi con chung: Chị Trần Thị D và anh Đào Xuân M có 01 con chung. Ly hôn chị D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh M không đồng ý. Xét thấy cháu Kim Anh đang ở ổn định với chị D, cháu còn nhỏ lại là con gái, cần có sự chăm sóc của người mẹ. Giao cháu Kim Anh cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, chị D không yêu cầu anh M phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[3] Về chia tài sản: Chị Trần Thị D và anh Đào Xuân M không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Trần Thị D phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị D được ly hôn anh Đào Xuân M.

2. Về nuôi con chung: Giao cho chị Trần Thị D trực tiếp nuôi dưỡng con Đào Ngọc Kim A, sinh ngày 28/9/2017. Anh Đào Xuân M không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Đào Xuân M có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng cho con được đặt ra giải quyết khi có yêu cầu.

3. Về chia tài sản: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trần Thị D phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng chị D đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai số 0000720 ngày 26 tháng 7 năm 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí ly hôn sơ thẩm cho chị D.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị D và anh Đào Xuân M có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hợp lệ./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 54/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:54/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về