Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 36/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 36/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 18 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 224/2021/TST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2021 về việc ‘Tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 42/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1974; Địa chỉ: số 264 T, phường V, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh Có mặt.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị A, sinh năm 1979; Địa chỉ: thôn L, xã Đ, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp cho chị A: Anh Nguyễn Bỉnh H, sinh năm 1993; Địa chỉ: thôn N, xã M, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn là anh Nguyễn Văn L trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị A kết hôn với nhau từ năm 2001 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đại Xuân, huyện Quế Võ. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau do bất đồng về quan điểm sống. Chị A cư xử với chồng và gia đình chồng không tốt, khi mẹ anh ở cùng vợ chồng anh chị thì chị A thường xuyên tỏ thái độ không bằng lòng, vô lễ với mẹ anh Luân. Đối với việc xây dựng kinh tế gia đình thì chị A không có trách nhiệm, không đóng góp gì với anh Luân, mà còn cản trở anh làm ăn dẫn tới mâu thuẫn của vợ chồng ngày càng sâu sắc. Đến khoảng tháng 2/2020 vợ chồng anh chị tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, do khi đó anh Luân cùng các anh em ruột trong gia đình có chung vốn để đầu tư mua 01 thửa đất, gia đình anh Luân không đồng ý để chị A cùng đứng tên, nhưng chị A không nhất trí nên vợ chồng đã cãi nhau, sau đó chị A bỏ về thôn Liễn Thượng, xã Đại Xuân ở. Vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ đó đến nay, trong thời gian này anh Luân đã có một số lần thuyết phục chị A để vợ chồng đoàn tụ, nhưng chị A không đồng ý. Đến nay anh Luân thấy rằng vợ chồng anh không còn có sụ tin tưởng, cảm thông và không còn tình cảm gì nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị A.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có 03 con chung là Nguyễn Thành L, sinh năm 2002; Nguyễn Thị Bích P, sinh năm 2007 và Nguyễn Phương Anh, sinh năm 2019. Hiện nay Long đã trưởng thành và đi làm nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu ly hôn anh Luân có nguyện vọng được nuôi cháu Phượng, còn để chị A nuôi cháu Phương Anh. vấn đề cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện nay anh Luân đang làm kinh doanh buôn bán, thu nhập trung bình khoảng 04 triệu đồng/tháng, tuy nhiên do làm công việc tự do nên anh không có tài liệu gì để chứng minh thu nhập của mình.

Về tài sản: Anh Luân không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là chị Nguyễn Thị A trình bày:

Chị A cũng xác nhận lời khai của anh Luân về quá trình kết hôn là đúng. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau do bất đồng về quan điểm sống và về vấn đề kinh tế gia đình, anh Luân cũng hay đánh đập chị. Vợ chồng anh chị không có sự tin tưởng nhau về chuyện tiền bạc, ai làm được bao nhiêu tiền thì người đó giữ, nhưng mọi chi tiêu trong gia đình đều do chị A bỏ tiền ra. Khi chị A đang mang bầu con thứ ba thì chị phát hiện anh Luân ngoại tình, sau đó anh Luân thường xuyên về gây sự, đánh đập chị nhưng chị vẫn cam chịu. Đến đầu năm 2020 do anh Luân ép buộc chị ký giấy từ chối tài sản nhưng chị không ký nên lại bị anh Luân đánh. Do không chịu đụng được nên chị A đã đưa 03 con về nhà tại thôn Liễn Thượng, xã Đại Xuân để ở, và vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ đó đến nay. Tuy nhiên, do các con của anh chị còn nhỏ, chị A không muốn các con phải chịu thiệt thời nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Nếu ly hôn chị A đề nghị được nuôi cả cháu Phượng và cháu Phương Anh. Chị A yêu cầu anh Luân cấp dưỡng 3.000.000 đồng/tháng cho cả 02 con. Hiện nay chị A đáng làm ở công ty, thu nhập từ 11-14 triệu đồng/tháng.

Về tài sản: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo đơn trình bày của Nguyễn Thành L là con trai của anh Luân, chị A thì anh Luân thường xuyên đánh đập, chửi bới và xúc phạm chị A. Ngoài ra, ong còn chứng kiến việc anh Luân có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác.

Còn bà Dương Thị Mưu là mẹ của anh Luân cũng khẳng định trong quá trình bà sống cùng vợ chồng anh Luân, chị A thì chị A đã cư xử không tốt, có thái độ coi thường, vô lễ với mẹ chồng.

Tại phiên tòa, anh Luân, chị A vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

Anh Hiếu trình bày: về ý do anh Luân yêu cầu ly hôn chị A vì chị A không ký văn bản từ chối tài sản chung là thửa đất tại huyện Yên Phong là không phù hợp, vì thửa đất này hiện nay vẫn chưa đứng tên 02 vợ chồng. Còn mâu thuẫn giữa chị A và mẹ anh Luân thì chỉ là do sự hiểu lầm, và chị A đã hứa sẽ sửa đổi. Mặc dù trước đó anh Luân có quan hệ ngoại tình nên đã về đánh đập, ruồng rẫy vợ con nhưng đến nay chị A vẫn cam chịu bỏ qua hết để mong muốn vợ chồng về đoàn tụ cùng nuôi dạy con cái. Do đó, mâu thuẫn của vợ chồng anh Luân, chị A chưa đến mức trầm trọng, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Luân.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đều đã tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. về quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83, 107, 110, 116, 117 Luật hôn nhân và gia đình:

- Chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Luân đối với chị A.

- Về con chung: Giao cháu Phượng và cháu Phương Anh cho chị A nuôi dưỡng. Anh Luân có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 02 con từ 2,5 - 3 triệu đồng/tháng.

- Về án phí: Anh Luân phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Văn Luân khởi kiện yêu cầu ly hôn với chị Nguyễn Thị A (trú tại thôn Liễn Thượng, xã Đại Xuân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) và giải quyết vấn đề nuôi con chung, nên quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” được xem xét, giải quyết theo quy định của luật hôn nhân và gia đình, thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Quế Võ.

[2] Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn Luân và chị Nguyễn Thị A kết hôn với nhau từ năm 2001 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đại Xuân, huyện Quế Võ nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân theo anh Luân trình bày là do chị A đối xử không tốt với anh và mẹ anh, ngoài ra đối với việc xây dựng kinh tế gia đình thì chị A không có trách nhiệm, không những không giúp mà còn cản trở anh làm ăn dẫn tới mâu thuẫn của vợ chồng ngày càng sâu sắc. Chị A cũng xác nhận vợ chồng anh chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau do bất đồng về quan điểm sống và về vấn đề kinh tế gia đình, anh Luân thường xuyên đánh đập chị. Vợ chồng anh chị không có sự tin tưởng nhau về chuyện tiền bạc, ai làm được bao nhiêu tiền thì người đó giữ. Ngoài ra, năm 2019 chị A còn phát hiện anh Luân ngoại tình với người phụ nữ khác. Đến tháng 3/2020 do anh Luân yêu cầu chị A ký văn bản từ chối tài sản chung thì mâu thuẫn của vợ chồng lại càng gay gắt, anh Luân đã đuổi đánh chị A ra khỏi nhà. HĐXX thấy rằng mâu thuẫn của anh Luân, chị A nhưng không có sự cảm thông, chia sẻ và tin tưởng lẫn nhau về vấn đề xây dựng kinh tế gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt, thường xuyên xảy ra tình trạng bạo lực gia đình, thậm chí chị A và cháu Long còn phát hiện anh Luân ngoại tình với người phụ nữ khác. Anh Luân, chị A đã sống ly thân từ đầu năm 2020 đến nay, trong thời gian này mâu thuẫn của hai vợ chồng vẫn không được giải quyết, chị A mặc dù không đồng ý ly hôn nhưng cũng không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét thấy mâu thuẫn của anh Luân, chị A đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Luân với chị A.

[3] Về con chung: Anh Luân, chị A có 03 con chung là Nguyễn Thành L, sinh năm 2002; Nguyễn Thị Bích P, sinh năm 2007 và Nguyễn Phương A, sinh năm 2019. Hiện nay cả 03 con đều đang ở với chị A, đối với cháu Long đã trưởng thành, không bị mất khả năng lao động nên Tòa án không xem xét. Đối với cháu Phương Anh hiện nay chưa đủ 36 tháng tuổi, còn cháu Phượng có trình bày nguyện vọng được ở với chị A. Xét thấy chị A có nơi ở và thu nhập ổn định, có đủ điều kiện để chăm sóc các con, mặt khác hiện nay cháu Ph do ảnh hưởng từ mâu thuẫn của bố mẹ nên có tâm lý không ổn định và đã bỏ học. Do đó, cần giao cho chị A được tiếp tục nuôi cháu Phượng và cháu Phương Anh để bảo đảm sự phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần cho các cháu. Anh Luân phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Ph và cháu Phương A mỗi cháu 1.500.000 đồng/tháng cho tới khi các cháu đủ 18 tuổi.

[4] Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[5] Về án phí: Anh Luân phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83, 107, 110, 116, 117 luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

1. Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn Luân được ly hôn chị Nguyễn Thị A.

2. Về con chung: Chị A được nuôi cháu Nguyễn Thị Bích P, sinh năm 2007 và Nguyễn Phương A, sinh năm 2019.

Anh L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu P và cháu Phương A mỗi cháu 1.500.000 đồng/tháng kể từ ngày 18/8/2021 cho tới khi các cháu đủ 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Luân phải chịu 600.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Xác nhận anh L đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0002705 ngày 01/7/2021 của Chi cục THADS huyện Quế Võ.

Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 36/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về