Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 30/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 30/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 11 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cư Kuin xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 124/2022/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2022, về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Bích T, sinh năm 1991. HKTT: Thôn M, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

Địa chỉ hiện nay: Đường L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

* Bị đơn: Ông Hồ Trường G, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Thôn M, xã E, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa của nguyên đơn bà Bùi Thị Bích T trình bày:

Tôi và ông Hồ Trường G tự nguyện tìm hiểu yêu thương nhau và đăng ký kết hôn tại UBND xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk theo giấy chứng nhận kết hôn số 26 ngày 22/02/2017.

Sau khi kết hôn vợ chồng xây nhà trên đất của bố mẹ ông G cho năm 2019 và vợ chồng chung sống với nhau tại thôn M, xã E, huyện C được một thời gian thì đến đầu năm 2019 vợ chồng bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn không chung sống từ ngày 06/7/2022 thì ly thân. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách và quan điểm vợ chồng không hợp nhau, cuộc sống không hạnh phúc, không tìm được tiếng nói chung. Các bên đã nhiều lần thỏa thuận với nhau và hòa giải nhưng không thành. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, không có tình yêu thương, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn với ông G.

Về con chung: Quá trình chung sống, tôi và ông Hồ Trường G có 01 con chung là cháu Hồ Đức Minh Q, sinh ngày 09/9/2017, tôi có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Q. Hiện tại công việc chính của tôi là Y sĩ đa khoa tại Trạm y tế xã C, huyện C với mức thu nhập trung bình mỗi tháng khoảng 5.200.000 đồng. Còn ông G chỉ có thu nhập từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng tiền thu hoạch tiêu mỗi năm, vì giá tiêu thấp, không đúng như ông G trình bày. Sau khi ly thân tôi và cháu Q về sinh sống cùng mẹ đẻ của tôi tại đường L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk, trước khi đi làm tôi đều lo cho con đầy đủ, tôi đi làm giờ hành chính một tuần 03 ngày, cách 08 ngày trực 01 lần, mẹ tôi chỉ ở nhà một mình nên hỗ trợ giúp cho tôi trong việc nuôi con. Nên bản thân tôi đủ khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Q đến tuổi thành niên.

Về cấp dưỡng nuôi con tôi không yêu cầu ông G cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo bản tự khai và tại phiên tòa bị đơn ông Hồ Trường G:

Về quan hệ hôn nhân và mâu thuẫn vợ chồng giữa tôi và bà T thì đúng như bà T trình bày. Nay bà T yêu cầu ly hôn thì tôi đồng ý ly hôn với bà T.

Về con chung: Quá trình chung sống, tôi và bà T có 01 con chung là cháu Hồ Đức Minh Q, sinh ngày 09/9/2017. Tôi có nguyện vọng chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Q đến tuổi thành niên.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tôi có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Q, bản thân tôi hiện tại có nhà ở ổn định mà tôi và bà T đã xây trên đất của cha mẹ tôi cho, tôi đang sử dụng và canh tác trên diện tích 6.000m2 mà cha mẹ tôi nhận giao khoán của Công ty TNHH Cà phê E tại đội B, thôn M, xã E, huyện C trồng cây cà phê, tiêu và tôi đang làm đơn xin Công ty để nhận khoán lại diện tích đất này, thu nhập hàng năm của tôi từ 150 triệu đồng đến 200 triệu đồng. Ngoài ra cháu Q bị bệnh hen phế quản di truyền, công việc của bà T do đi lại từ nơi ở đến cơ quan xa, sáng đi tối mới về nên tôi sẽ có nhiều thời gian để chăm sóc cháu hơn bà T và không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Quan hệ pháp luật giải quyết c ủa vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng, thủ tục giải quyết và việc thu thập chứng cứ theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và bị đơn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng từ khi khai mạc phiên tòa đến khi kết thúc phần tranh luận.

̀ nội dung: Đề nghi ̣HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị Bích T.

Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa bà Bùi Thị Bích T và ông Hồ Trường G.

Về con chung: Giao 01 cháu cháu Hồ Đức Minh Q, sinh ngày 09/9/2017 cho bà Bùi Thị Bích T chăm sóc và nuôi dưỡng đến tuổi thành niên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của các đương sự, Viện kiểm sát, HĐXX xét thấy:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bà Bùi Thị Bích T và ông Hồ Trường G đều có mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về hôn nhân: Bà Bùi Thị Bích T và ông Hồ Trường G đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện tại UBND xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk ngày 22/02/2017. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận.

Xét tình trạng hôn nhân giữa bà Bùi Thị Bích T và ông Hồ Trường G qua lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa, cũng như kết quả xác minh tại chính quyền địa phương cho thấy sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau thôn M, xã E, huyện C được một thời gian thì đến đầu năm 2019 vợ chồng bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách và quan điểm vợ chồng không hợp nhau, cuộc sống không hạnh phúc, không tìm được tiếng nói chung. Các bên đã nhiều lần thỏa thuận với nhau và hòa giải nhưng không thành. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, không có tình yêu thương, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn với ông G. Tại phiên tòa, bà T và ông G đều thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc và yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông bà được ly hôn. Căn cứ vào Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa bà Bùi Thị Bích T và ông Hồ Trường G.

[3]. Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung là cháu Hồ Đức Minh Q, sinh ngày 09/9/2017. Hiện nay đang ở với bà T, ông G và bà T đều có nguyện vọng chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Q và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy cháu Q còn nhỏ và từ trước đến nay đều do bà T chăm sóc nuôi dưỡng, khi các bên ly thân thì bà T về nhà mẹ đẻ (là bà Lê Thị Như X tại đường L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk), bà X là người đang sống một mình, ngoài việc hỗ trợ chăm sóc cháu Q khi bà T đi làm ra thì không phải chăm sóc nuôi dưỡng ai. Xét thấy, bà T làm nghề y sĩ, có thu nhập và điều kiện ổn định đảm bảo cho việc nuôi dưỡng chăm sóc con, cháu Q hiện đang học tập, sinh hoạt ổn định ở trường mẫu giáo L và đang bị bệnh hen di truyền, để tránh làm xáo trộn cuộc sống của cháu Q và đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con, cũng như nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chưa thành niên, Hội đồng xét xử cần giao cháu Q cho bà T nuôi dưỡng là phù hợp.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6]. Về án phí: Bà Bùi Thị Bích T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cư vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 220, Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình. Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghi ̣ quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội “Quy định về mưc thu, miễn, giam, thu, nôp̣ án”.

quan ly va sư duṇ g an phi va lệ phi Toa an về mưc thu án phí, lệ phí Tòa

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị Bích T 1. Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa bà Bùi Thị Bích T và ông Hồ Trường G.

2. Về nuôi con: Giao 01 cháu cháu Hồ Đức Minh Q, sinh ngày 09/9/2017 cho bà Bùi Thị Bích T chăm sóc và nuôi dưỡng đến tuổi thành niên.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con mà không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Bà Bùi Thị Bích T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, được khấu trừ vao số tiền tam ưng an phi 300.000 đồng mà bà T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021/0017219 ngày 09/6/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk. Bà T đã nộp xong tiền án phí.

4. Thông báo quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 30/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:30/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Kuin - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về