Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 30/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 30/2022/HNGĐ-ST NGÀY 03/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 03 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 117/2021/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2022 , Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2022/QĐST-HNGĐ ngày 16 thàng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Ngô Phương N, sinh năm 1978 Nơi đăng ký HKTT: Lô 18, MBQH số 212 đường N, phường P, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1986.

Nơi cư trú cuối cùng: Lô 18, MBQH số 212 đường N, phường P, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt anh N, vắng mặt chị Hoàng A.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn anh Ngô Phương N trình bày:

Về hôn nhân: Anh và cô Nguyễn Hoàng A kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn ngày 24/8/2005 tại UBND phường L, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống hạnh phúc hòa thuận, vài năm sau phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, cô Hoàng A nợ nần ngoài xã hội nhiều và không có khả năng thanh toán dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã lẫn nhau. Đến tháng 6 năm 2011, cô Hoàng A bỏ đi khỏi nhà, không nói với gia đình là đi đâu làm gì, từ đó đến nay cô Hoàng A không trở về và không liên lạc gì với gia đình, chồng con. Anh và gia đình đã áp dụng các biện pháp tìm kiếm nhiều nơi qua người thân, bạn bè của chị Hoàng A, nhắn tin trên thông tin đại chúng nhưng không có kết quả. Do đó anh đã làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố cô Nguyễn Hoàng A mất tích. Tại Quyết định số 02/2021/QĐST ngày 16/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố H đã tuyên bố cô Nguyễn Hoàng A mất tích. Từ đó đến nay vẫn không có tin túc gì của cô Hoàng A. Vì vậy đề nghị Tòa án cho anh được ly hôn với cô Nguyễn Hoàng A.

- Về con chung: Anh và cô Nguyễn Hoàng A có 02 con chung là cháu Ngô Gia Ng, sinh ngày 17/3/2005 và cháu Ngô Ngọc A, sinh ngày 03/4/2010. Từ khi cô Hoàng A bỏ đi đến nay, hai cháu ở với anh, do anh chăm sóc, nuôi dưỡng. Nguyện vọng của anh N khi ly hôn được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con, không yêu cầu cô Hoàng A phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản: Anh Ngô Phương N không yêu cầu giải quyết.

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn của anh Ngô Phương N, Tòa án tiến hành xác minh tại địa phương. Trưởng phố xác nhận: Anh N và chị Hoàng A sau khi kết hôn chung sống tại Lô 18, MBQH số 212 đường Ng, phường Ph, thành phố H. Trong quá trình chung sống, anh N và chị Hoàng A có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn địa phương không nắm được. Chị Hoàng A đã không sinh sống tại địa phương từ năm 2011 đến nay. Hiện nay chị Hoàng A đi đâu, làm gì địa phương không nắm được.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ thời điểm thụ lý vụ án đến nay đã thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn là chị Nguyễn Hoàng A vắng mặt do đã bị Tòa án tuyên bố mất tích. Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án, thực hiện các thủ tục tống đạt và niêm yết công khai văn bản tố tụng, xác minh thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Hoàng A là đúng quy định.

Quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 51; Khoản 2 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 2 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Ngô Phương N.

Về con chung: Giao cháu Ngô Gia Ngc và cháu Ngô Ngọc A cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng; Chị Hoàng A không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Hoàng A có hộ khẩu thường trú trên địa bàn thành phố Thanh Hóa. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thành phố Thanh Hóa.

Bị đơn là chị Nguyễn Hoàng A đã bị Tòa án tuyên bố mất tích. Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án, thực hiện các thủ tục tống đạt và niêm yết công khai văn bản tố tụng, xác minh thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vắng mặt chị Hoàng A theo quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Anh Ngô Phương N và chị Nguyễn Hoàng A kết hôn năm 2005, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, chị Hoàng A nợ nần ngoài xã hội nhiều và không có khả năng thanh toán dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã lẫn nhau. Đến tháng 6 năm 2011, chị Hoàng A bỏ đi khỏi nhà, không nói với gia đình là đi đâu làm gì, từ đó đến nay không trở về và không liên lạc gì với gia đình, chồng con. Hiện nay chị Hoàng A đã bị tuyên bố mất tích theo quyết định của Tòa án.

Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chung xây cuộc sống, hạnh phúc gia đình, nhưng ở đây chị Hoàng A đã không có trách nhiệm với gia đình, bỏ nhà đi không quan tâm đến chồng, con. Do đó mục đích hôn nhân của anh, chị không đạt được. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận cho anh Ngô Phương N được ly hôn chị Nguyễn Hoàng A là phù hợp pháp luật.

[3] Về con chung: Anh Ngô Phương N và chị Nguyễn Hoàng A có 02 con chung là cháu Ngô Gia Ng, sinh ngày 17/3/2005 và cháu Ngô Ngọc A, sinh ngày 03/4/2010. Từ khi chị Hoàng A bỏ đi đến nay, hai cháu ở với anh N, do anh Nam chăm sóc, nuôi dưỡng. Nguyện vọng của anh N khi ly hôn được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con và không yêu cầu chị Hoàng A phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Hoàng A hiện đã bị tuyên bố mất tích theo quyết định của Tòa án, không tham gia phiên hòa giải, không có ý kiến về con chung. Cháu Ng và cháu A ở với anh N từ khi chị Hoàng A bỏ nhà đi. Anh N là người đang trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu. Tại bản tự khai, cháu Ng và cháu A cũng có ý kiến xin được ở với bố. Anh N có khả năng lao động và có điều kiện để chăm sóc con, do đó việc giao cháu Ng và cháu A cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Ngô Phương N. Nếu chị Hoàng A trở về, giành quyền xin thay đổi nuôi con cho chị nếu có yêu cầu.

[4] Về tài sản: Anh Ngô Phương N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Anh Ngô Phương N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 51; Khoản 2 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 2 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án.

Xử:

Về hôn nhân: Anh Ngô Phương N được ly hôn chị Nguyễn Hoàng A.

Về con chung: Công nhận anh Ngô Phương N và chị Nguyễn Hoàng A có 02 con chung là cháu Ngô Gia Ng, sinh ngày 17/3/2005 và cháu Ngô Ngọc A, sinh ngày 03/4/2010. Giao cháu Ng và cháu A cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng, chị Hoàng A không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Nguyễn Hoàng A có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Giành quyền cho Nguyễn Hoàng A được yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn nếu có yêu cầu.

Về tài sản: Anh Ngô Phương N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Anh Ngô Phương N phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2021/0001529 ngày 16/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H. (Anh N đã nộp đủ án phí).

Về quyền kháng cáo: Anh N có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Hoàng A vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 30/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:30/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về