Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 25/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẠ HÒA, TỈNH PHÚ THỌ

 BẢN ÁN 25/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 Ngày 28 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 90/2021/TLST-HNGĐ, ngày 05/3/2021, về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2021/QĐXX-ST ngày 13/4/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị A, sinh năm 1991 Cư trú tại: Khu 01, xã Đ, huyện H, tỉnh Phú Thọ

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1982 Cư trú tại: Khu 01, xã Đ, huyện H, tỉnh Phú Thọ

Chị A có mặt, anh T vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị A trình bày:

Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn T ngày 16/11/2009 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Sau ngày kết hôn chị về chung sống cùng gia đình anh T. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, anh T thường xuyên uống rượu chửi bới và đánh đập chị. Chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ cuối năm 2019 đến nay và chấm dứt mọi quan hệ với anh T. Đến nay chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã căng thẳng trầm trọng kéo dài không còn khả năng đoàn tụ, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

- Về con chung: Chị A xác nhận vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Công Đ, sinh ngày 18/9/2010 và Nguyễn Khánh D, sinh ngày 09/7/2012. Sau khi ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đ, anh T nuôi cháu D, chị và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

- Về tài sản chung, vay nợ chung và công sức đóng góp: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không có mặt. Quá trình xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Đ và ông Nguyễn Văn T là bố đẻ anh T đều thể hiện: Anh T và chị A kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau kết hôn chị A đã về chung sống cùng gia đình ông. Cuộc sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, từ đó chị A đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay không quan tâm đến nhau nữa. Hiện nay bố con anh T ở cùng ông. Tòa án đã giao các thông báo và giấy triệu tập cho ông để ông thông báo, giao cho anh T, anh T biết nhưng đều vắng mặt.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hạ Hòa phát biểu: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Ý kiến giải quyết vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị A và anh Nguyễn Văn T - Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị A trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Công Đ, sinh ngày 18/9/2010, giao anh Nguyễn Văn T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Khánh D, sinh ngày 09/7/2012, kể từ tháng 5/2021cho đến khi các cháu thành niên. Chị A và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

- Về tài sản chung, công nợ chung, cho vay chung, công sức đóng góp: Chị A không yêu cầu nên không phải giải quyết.

- Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị A phải nộp theo quy định của pháp luật 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị A cư trú tại xã Đ, huyện H, tỉnh Phú Thọ khởi kiện yêu cầu ly hôn và giải quyết nuôi con chung của vợ chồng với bị đơn anh Nguyễn Văn T cư trú cùng địa chỉ nên đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ phiên tòa lần thứ hai nhưng không có mặt. Căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vắng mặt anh T theo quy định.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị A và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau năm 2009, trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện H, tỉnh Phú Thọ, đây là một hôn nhân hợp pháp. Hai bên chung sống hòa thuận được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T hay uống rượu say, chửi bới đánh đập chị A. Từ cuối năm 2019, chị A đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở và vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, không quan tâm đến nhau nữa. Chính quyền địa phương và gia đình anh T cũng xác nhận mâu thuẫn vợ chồng giữa chị A và anh T. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị A và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, việc chị A xin ly hôn anh T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận.

[ 2.2]. Về con chung: Chị A, anh T có 02 con chung là Nguyễn Công Đ, sinh ngày 18/9/2010 và Nguyễn Khánh D, sinh ngày 09/7/2012. Chị A và anh T đều có điều kiện nuôi con như nhau. Nguyện vọng của cháu Đ xin được ở với mẹ, còn nguyện vọng của cháu D xin được ở với bố. Do vậy sau khi ly hôn sẽ giao cháu Đ cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu D cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Chị A và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

[2.3]. Về tài sản chung, vay nợ chung, công sức đóng góp: Chị A không đề nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nếu sau này phát sinh tranh chấp chị A, anh T có đơn yêu cầu có căn cứ thì Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[3]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị A phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị A và anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị A trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Công Đ, sinh ngày 18/9/2010, giao cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Khánh D, sinh ngày 09/7/2012, kể từ tháng 5/2021 cho đến khi các cháu thành niên. Chị A và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Chị A và anh T đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, vay nợ chung, công sức đóng góp: Không đề nghị giải quyết.

4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị A phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Số tiền chị A phải nộp được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai số AA/2020/0002611, ngày 04/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hạ Hòa. Chị A đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Chị A có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 25/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:25/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hạ Hoà - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về