Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 179/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 179/2023/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2023 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 24 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số 166/2023/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2023 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 155/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1996; địa chỉ: Xóm Đ, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Lê xuân Q, sinh năm 1991; địa chỉ cư trú trước khi xuất cảnh: Khối H, phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An; hiện đang ở Đài Loan; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, đơn xin xét xử vắng mặt, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Y trình bày:

Chị và anh Lê Xuân Q1 kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An vào ngày 21/10/2019. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau một thời gian ngắn ở nhà bố mẹ chồng tại khối H, phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An. Đến tháng 11/2019 thì anh Q1 đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, thời gian đầu sang Đài Loan vợ chồng vẫn thường xuyên liên lạc với nhau, quan tâm nhau. Sau này do cuộc sống xa cách, vợ chồng ít liên lạc, không còn quan tâm nhau nữa, vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm. Hiện nay chị Y và anh Q1 cắt đứt liên lạc. Nay chị Y xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Xuân Q1.

Về con chung: Chị và anh Lê Xuân Q1 có 01 con chung là Lê Đức N, sinh ngày 31/3/2020, hiện tại cháu N đang ở cùng chị. Ly hôn chị Y có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Lê Xuân Q1, do vợ chồng không liên lạc gì với nhau nên chị Nguyễn Thị Y không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh Q1 ở Đài Loan. Theo chị Y trình bày anh Q1 vẫn thường xuyên liên lạc về với mẹ đẻ là bà Võ Thị Đ; địa chỉ cư trú: K, phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An và bà Đ biết địa chỉ cụ thể của anh Q1 ở Đài Loan; đề nghị Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để làm căn cứ giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã gửi văn bản cho bà Võ Thị D (là mẹ đẻ của anh Lê Xuân Q1) thông báo về việc Tòa án đang thụ lý, giải quyết vụ án để bà Đ thông báo cho anh Q1 và đề nghị anh Q1 nêu ý kiến về yêu cầu khởi kiện của chị Y. Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng bao gồm Thông báo về việc thụ lý vụ án, Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, Quyết định hoãn phiên tòa tại nơi cư trú của anh Q1 trước khi đi nước ngoài. Tuy nhiên, anh Q1 không có ý kiến gì và vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Nguyễn Thị Y và anh Lê Xuân Q1 được ly hôn. Về con chung: Giao cháu Lê Đức N, sinh ngày 31/3/2020 cho chị Y trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con: Chị Y không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét do nguyên đơn không yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là vụ án Hôn nhân và Gia đình có đương sự hiện đang ở Đài Loan. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, Điều 40 và Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 122, Điều 123 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2] Về thủ tục tố tụng: Anh Lê Xuân Q1 hiện đang ở Đài Loan, không có địa chỉ cụ thể. Bà Võ Thị Đ (là mẹ đẻ của anh Q1) đã thông báo cho con trai về việc thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng liên quan theo quy định pháp luật đồng thời yêu cầu bà Đ cung cấp địa chỉ cụ thể của anh Q1 ở Đài Loan nhưng bà Đ không cung cấp được. Tính đến ngày mở phiên tòa xét xử lần thứ hai, Tòa án không nhận được bất cứ văn bản nào của anh Q1 trình bày về yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Y nên được coi như trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết và vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Y vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt, bị đơn anh Lê Xuân Q1 vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa vắng mặt các đương sự.

[3] Xét nội dung vụ án và các ý kiến, yêu cầu của đương sự:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Y và anh Lê Xuân Q1 kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống chung hạnh phúc một thời gian thì đã phát sinh mâu thuẫn. Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do tính tình không hợp, anh Q1 đang sinh sống làm việc ở tại Đài Loan, chị Y ở Việt Nam, hai bên không còn liên lạc, quan tâm nhau, tình cảm vợ chồng phai nhạt dần. Chị Y có nguyện vọng được ly hôn với anh Q1. Xét thấy, tình cảm vợ chồng giữa chị Y và anh Q1 không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng. Vì vậy, nếu kéo dài cuộc hôn nhân này thì mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Y được ly hôn với anh Q1 là phù hợp Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[3.2] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Lê Đức N, sinh ngày 31/3/2020; hiện nay, cháu N đang ở với chị Y và chị Y đề nghị được trực tiếp nuôi con chung. Xét thấy, anh Q1 hiện đang ở nước ngoài và chưa có ý kiến gì về việc nuôi con nên cần giao cháu N cho chị Y trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật, về cấp dưỡng nuôi con, chị Y chưa yêu cầu và anh Q1 cũng chưa có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị Y không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Các bên có quyền khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết bằng một vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu.

[4] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Y phải chịu án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, Điều 40, khoản 1 Điều 207; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 469 và Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 122, Điều 123 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Y.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Y được ly hôn với anh Lê Xuân Q1.

- Về con chung: Giao 01 con chung là cháu Lê Đức N, sinh ngày 31/3/2020 cho chị Nguyễn Thị Y trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Lê Đức N đủ 18 tuổi, trưởng thành, về cấp dưỡng nuôi con, chị Nguyễn Thị Y chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Sau khi ly hôn, anh Lê Xuân Q1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, khi có lý do chính đáng hoặc có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các bên có quyền khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung bằng một vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu.

2. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc chị Nguyễn Thị Y phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 (ba trăm nghìn) đồng số tiền tạm ứng đã nộp tại Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Nghệ An theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0012854 ngày 10 tháng 5 năm 2023.

3. Chị Nguyễn Thị Y có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án; anh Lê Xuân Q1 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 179/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:179/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về