TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KS - TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 15/2024/HNGĐ-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 26 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 73/2023/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2023 về việc Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/ 2 0 2 4 /QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Xồng Bá T, sinh năm 1988;
Nơi cư trú: bản TH, xã ML, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Chị Và Y D, sinh năm 1985;
Nơi cư trú: bản TH, xã ML, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 10 năm 2023 và các lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án anh Xồng Bá T trình bày: Anh Xồng Bá T và chị Và Y D tổ chức đám cưới và chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện năm 2002 nhưng đến ngày 17/9/2013 mới tiến hành đăng ký kết hôn tại UBND xã ML, huyện KS. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng sau này tính tình không hợp nhau, thường xuyên mâu thuẫn, hai bên không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau; vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2020 đến nay. Thấy rằng tình cảm vợ chồng không còn nên anh Xồng Bá T đã khởi kiện yêu cầu ly hôn với chị Và Y D.
Về con: Vợ chồng có bốn con chung gồm: Cháu Xồng Bá M, sinh ngày 25/02/2003, cháu Xồng Bá C, sinh ngày 14/5/2008, cháu Xồng Bá V, ngày 15/3/2009 và cháu Xồng Thị Ng Y, ngày 05/2/2020, đối với cháu Xồng Bá M, sinh ngày 25/02/2003, đã trưởng thành và có gia đình riêng nên không anh Xồng Bá T không có ý kiến gì, đối với các cháu còn lại, anh Xồng Bá T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, không yêu cầu chị Và Y D cấp dưỡng nuôi con chung.
Quá trình giải quyết vụ án, các con chung là cháu Xồng Bá C, sinh ngày 14/5/2008 và cháu Xồng Bá V, ngày 15/3/2009 trình bày, trường hợp cha mẹ ly hôn thì nguyện vọng của hai cháu là muốn được ở với cha là anh Xồng Bá T.
Về tài sản và khoản nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về phía bị đơn chị Và Y D, trong quá trình giải quyết vụ án chị Và Y D vắng mặt tại nơi cư trú, Tòa án đã thực hiện các thủ tục tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định nhưng chị Và Y D không có mặt tại Tòa án để làm việc, do đó Tòa án không lấy được lời khai của chị Và Y D.
Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phát biểu:
Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân gia đình; các Điều 28, 35, 39, 227, 228 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị xử cho anh Xồng Bá T được ly hôn với chị Và Y D.
Về con chung: Đề nghị giao các cháu Xồng Bá C, sinh ngày 14/5/2008, cháu Xồng Bá V, ngày 15/3/2009 và cháu Xồng Thị Ng Y, ngày 05/2/2020 cho anh Xồng Bá T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ tuổi trưởng thành, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Và Y D.
Về về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị không xem xét.
Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết nghĩa vụ chịu phí theo quy định của pháp luật
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, trên cơ sở đánh giá khách quan các chứng cứ và lời trình bày của đương sự trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về tố tụng: Anh Xồng Bá T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, Hội đồng xét xử xác định đây là quan hệ “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự và thẩm quyền giải quyết là của Tòa án nhân dân cấp Huyện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại thời điểm khởi kiện, bị đơn là chị Và Y D, cư trú tại bản TH, xã ML, huyện KS. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An theo quy định tại khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc vắng mặt của bị đơn: Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn chị Và Y D vắng mặt tại nơi cư trú, Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định mà chị Và Y D vẫn cố tình vắng mặt, vì vậy căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự việc Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định.
Nguyên đơn anh Xồng Bá T vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên việc giải quyết, xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định tại Điều 207 và Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Anh Xồng Bá T và chị Và Y D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, vì vậy, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc, tuy nhiên, về sau thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn tới mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, chị Và Y D không quan tâm chăm sóc gia đình, thường xuyên vắng mặt tại địa phương, đi đâu làm gì không ai biết. Hội đồng xét xử nhận thấy rằng tình cảm giữa anh Xồng Bá T và chị Và Y D thực sự không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Xồng Bá T là phù hợp với các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Anh Xồng Bá T và chị Và Y D có bốn con chung gồm: Cháu Xồng Bá M, sinh ngày 25/02/2003, cháu Xồng Bá C, sinh ngày 14/5/2008, cháu Xồng Bá V, ngày 15/3/2009 và cháu Xồng Thị Ng Y, ngày 05/2/2020; cháu Xồng Bá M, sinh ngày 25/02/2003, nay đã trưởng thành và có gia đình riêng nên không anh Xồng Bá T không có ý kiến gì, đối với các cháu còn lại, anh Xồng Bá T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc các con cho đến khi các Cháu đủ tuổi trưởng thành, không yêu cầu chị Và Y D cấp dưỡng nuôi con chung; các cháu Xồng Bá C, sinh ngày 14/5/2008, cháu Xồng Bá V, ngày 15/3/2009 đều có nguyện vọng được ở với cha là anh Xồng Bá T.
Xét thấy, hiện nay chị Và Y D thường xuyên vắng mặt tại địa phương, đi đâu làm gì, không ai biết, các cháu Xồng Bá C và cháu Xồng Bá V đều có nguyện vọng được ở với cha là anh Xồng Bá T. Để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con cần giao các cháu Xồng Bá C, sinh ngày 14/5/2008, cháu Xồng Bá V, ngày 15/3/2009 và cháu Xồng Thị Ng Y, ngày 05/2/2020 cho chị anh Xồng Bá T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi con đủ tuổi trưởng thành là phù hợp, đúng quy định.
[4] Về tài sản: Nguyên đơn anh Xồng Bá T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Anh Xồng Bá T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân gia đình;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/20/16 UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu nộp án phí và lệ phí Tòa án;
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Xồng Bá T.
Xử cho anh Xồng Bá T được ly hôn chị Và Y D;
2. Về con chung: Giao con chung là các cháu Xồng Bá C, sinh ngày 14/5/2008, cháu Xồng Bá V, ngày 15/3/2009 và cháu Xồng Thị Ng Y, ngày 05/2/2020 cho anh Xồng Bá T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Và Y D do anh Xồng Bá T không yêu cầu.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm non chăm sóc con, người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con.
Vì lợi ích mọi mặt của con chung khi có căn cứ hoặc có lý do chính đáng có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
3. Về án phí: Buộc anh Xồng Bá T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo liên lai số 0004361 ngày 11/10/2023 tại Chị cục thi hành án huyện KS, tỉnh Nghệ An.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết công khai./.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 15/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 15/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về