Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH P

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện H, tỉnh P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 44/2022/TLST- HNGĐ, ngày 26 tháng 01 năm 2022, về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2022/QĐXX-ST ngày 15/3/2022, giữa các đương sự: Nguyên đơn: Chị Tạ Thị Ngọc P, sinh năm 1999;

Bị đơn: Anh Bùi Anh T, sinh năm 1996;

Đều ĐKHHTT tại: Khu 4, xã H, huyện H, tỉnh P.

Chị P có mặt, anh T vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và quá trình giải quyết, nguyên đơn chị Tạ Thị Ngọc P trình bày:

Chị và anh Bùi Anh T đăng kết hôn ngày 05/12/2017 tại UBND xã H, huyện H, tỉnh P, trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu. Sau khi kết hôn anh, chị về chung sống cựng bố mẹ anh T tại xã H, huyện H, tỉnh P. Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu hòa thuận, hạnh phúc, đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, thường xuyên xảy ra cãi cọ, đánh chửi nhau, mâu thuẫn kéo dài không thể hòa giải được, đến cuối năm 2019 chị về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân chấm dứt mọi quan hệ, không hề quan tâm tới nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không thể đoàn tụ, chị P đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn anh T.

- Về con chung: Chị P xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Bùi Tiến Đ, sinh ngày 02/11/2018, hiện nay cháu Đ đang ở với chị. Khi ly hôn chị P xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung và không đề nghị anh T phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

- Về tài sản chung, về nợ chung, cho vay chung, công sức đóng góp: Chị P xác định không có, không đề nghị giải quyết.

Về lời khai của bị đơn anh Bùi Anh T:

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Bùi Anh T đó được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không có mặt tại Tòa án để giải quyết. Vì vậy, anh T không có lời khai và Tòa án không tiến hành các thủ tục công khai chứng cứ và hòa giải được. Quá trình làm việc mẹ đẻ anh T (bà Nguyễn Thị T) và xác minh tại Ủy ban nhân dân xã H đều cho biết: Chị P và anh T kết hôn ngày 05/12/2017, tại UBND xã H, huyện H, tỉnh P, trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu. Sau khi kết hôn chị P, anh T về sống chung cùng bà T (mẹ đẻ anh T). Vợ chồng chung sống hòa thuận thời gian đầu, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm, hay cãi nhau. Vợ chồng anh, chị hiện sống ly thân, chị P bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống từ năm 2019 đến nay, anh T cũng đi làm ăn xa, không ai biết địa chỉ nơi sinh sống và làm việc (anh T không cho biết).

Bà Nguyễn Thị T cho biết thêm, các văn bản tố tụng của Tòa án bà đó nhận thay và thông báo cho anh T biết, nhưng hiện anh đang bận đi làm ăn xa, tình hình dịch bệnh phức tạp nên anh không đến Tòa án làm việc được. Anh T cũng xác định vợ chồng không còn tình cảm, anh nhất trí ly hôn với chị P. Đề nghị Tòa án căn cứ các quy định của pháp luật giải quyết, xét xử vắng mặt anh. Về các vấn đề khác anh T không có đề nghị gì. Bà T cũng đề nghị Tòa án giải quyết cho các con được ly hôn.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H phát biểu: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Tạ Thị Ngọc P ly hôn với anh Bùi Anh T.

- Về con chung: Giao cho chị Tạ Thị Ngọc P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Bùi Tiến Đ, sinh ngày 02/11/2018 đến khi cháu thành niên, lao động tự túc được. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị P

- Về tài sản chung, vay nợ chung, cho vay chung, công sức đóng góp: Không đặt ra giải quyết.

- Về án phí: Chị Tạ Thị Ngọc P phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

Nguyên đơn chị Tạ Thị Ngọc P với anh Bùi Anh T đều có hộ khẩu thường trú tại khu 4, xã H, huyện H, tỉnh P. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình, thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh P.

Xét về sự vắng mặt của bị đơn anh Bùi Anh T, trong quá trình giải quyết vụ án. Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T, để anh T đến Tòa có lời khai và tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải theo thủ tục chung của pháp luật, nhưng anh T cố tình vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Mẹ anh T đó nhận các văn bản tố tụng và thông báo cho anh T, nhưng gia đình cho biết anh T làm việc ở xa, tình hình dịch bệnh phức tạp nên anh không thể đến Tòa án tham gia giải quyết vụ án, anh có đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt anh. Tại phiên tòa, chị P có mặt, anh T đó được Tòa án triệu tập phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng không có mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử theo quy định là phù hợp.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của chị P, bà T và của chính quyền địa P nơi anh, chị cư trú có thể xác định: Chị Tạ Thị Ngọc P với anh Bùi Anh T đăng ký kết hôn ngày 05/12/2017, tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh P, trên cơ sở tự nguyện. Đây là một hôn nhân hợp pháp phù hợp với pháp luật. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được khoảng 02 năm, sau đó vợ chồng phát nhiều sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do thường xuyên bất đồng quan điểm sống, cãi cọ, xô xát. Vợ chồng sống ly thân nhau từ năm 2019, chị P về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng không hề quan tâm gì đến nhau. Quan điểm của anh T và gia đình là đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn.

Xét thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Tạ Thị Ngọc P, anh Bùi Anh T là trầm trọng kéo dài, mục đích xây dựng một gia đình hạnh phúc, bền vững không Đ được. Do vậy, cần xử cho chị P ly hôn anh T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị Tạ Thị Ngọc P, anh Bùi Anh T có 01 con chung là cháu Bùi Tiến Đ, sinh ngày 02/11/2018, từ khi ly thân cháu Đ ở với chị P. Khi ly hôn chị P có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và chị không đề nghị anh T cấp dưỡng tiền nuôi con.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Cháu Đ còn nhỏ, kể từ khi vợ chồng sống ly thân cháu Đ ở cùng chị P. Anh T hiện nay đi làm xa, không có mặt ở nhà nên không thể trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Do vậy, để đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho con chung về mặt thể chất và tinh thần, cháu cần sự chăm sóc của mẹ. Nên khi ly hôn cần giao cháu Bùi Tiến Đ cho chị Tạ Thị Ngọc P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu thành niên, lao động tự túc được và anh T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung là phù hợp.

[2.3]. Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị P xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Tạ Thị Ngọc P phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phớ Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Tạ Thị Ngọc P ly hôn với anh Bùi Anh T.

2. Về con chung: Giao cho chị Tạ Thị Ngọc P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Bùi Tiến Đ, sinh ngày 02/11/2018 cho đến khi con chung trưởng thành, lao động tự túc được. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị P (chị P không yêu cầu).

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, vay nợ chung, công sức đóng góp: Chị Tạ Thị Ngọc P xác định không có, không đề nghị giải quyết, nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Tạ Thị Ngọc P phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Số tiền chị P phải nộp được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đó nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai số: AA/2020/0004827 ngày 25/01/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Báo cho các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật để đề nghị Toà án nhân dân tỉnh P xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hạ Hoà - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về