Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 07/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH N

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Hôm nay, ngày 20 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố V mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 320/2021/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2021 về việc “tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 31/12/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Võ Thị H Sinh năm 1989 Nơi Đ ký nhân khẩu thường trú: Khối 11, phường T, thành phố V, tỉnh N.

Chỗ ở hiện nay: khối 19, phường Đ, thành phố V, N, có mặt.

2. Bị đơn: anh Phạm Hải Đ Sinh năm 1980 Nơi Đ ký nhân khẩu thường trú: khối 11, phường T, thành phố V, tỉnh N.

Chỗ ở hiện nay: xã B, huyện B, tỉnh B, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 05/10/2021, bản tự khai và những lời trình bày của chị Võ Thị H trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa như sau: chị và anh Phạm Hải Đ lấy nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện tìm hiểu, có Đ ký kết hôn vào ngày 21/6/2011 tại UBND phường T, thành phố V, tỉnh N. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm lối sống, anh Đ hay nổi giận vô cớ với vợ con khiến cuộc sống gia đình luôn căng thẳng ngột ngạt, vợ chồng đã sống ly thân và đã chấm dứt quan hệ tình cảm từ tháng 6/2021 đến nay. Chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Tại phiên tòa hôm nay chị vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Hải Đ để ổn định cuộc sống và công việc.

Về con chung: chị H khai quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung tên là: Phạm Hải Đông, sinh ngày 11/11/2011 và Phạm Thị Hải Xuân, sinh ngày 02/5/2013. Thời gian vợ chồng sống ly thân, chị ở với con là Phạm Hải Xuân, con Phạm Hải Đông ở với ông bà nội (bố mẹ anh Đ), chị có nguyện vọng mỗi người nuôi một con, chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Hải Xuân và anh Đ nuôi con Phạm Hải Đông, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ: chị H khai vợ chồng tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án can thiệp giải quyết. Vợ chồng không có nợ chung, nợ riêng của ai người đó tự trả.

Phía bị đơn: Toà án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho anh Phạm Hải Đ qua người thân thích bố anh Đ là ông Phạm Hữu Lộc, anh Đ đã nhận được các thông báo của Tòa án nhưng anh có đơn xin giải quyết vụ án vắng mặt với lý do anh đang bận công việc ở xã Bình Thắng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre và dịch covid 19 diễn biến phức tạp nên không về được, tuy vắng mặt nhưng anh cũng đã có bản tự khai gửi về Tòa án (có xác nhận của bố anh là ông Phạm Hữu Lộc) trình bày như sau: Bản tự khai ngày đề ngày 29/12/2021, anh Đ khai nhận thời gian, điều kiện kết hôn đúng như chị H đã trình bày. Anh Đ cũng xác nhận vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm lối sống, mâu thuẫn kéo dài và căng thẳng, sống ly thân từ tháng 6/2021 đến nay tình cảm không còn nữa nên anh đồng ý thuận tình ly hôn với chị H và đề nghị Tòa án giải quyết sớm để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung, ly hôn anh có nguyện vọng mỗi người nuôi một con, anh xin được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung là Phạm Hải Đông, sinh ngày 11/11/2011, chị H nuôi dưỡng con chung Phạm Thị Hải Xuân, sinh ngày 02/5/2013, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Về tài sản và nợ: Vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án can thiệp giải quyết.

Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật. Bị đơn anh Đ đã có bản tự khai và đơn xin xét xử vắng mặt gửi về Tòa án (có xác nhận của bố là ông Phạm Hữu L), nên Tòa án không tiến hành hòa giải và đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh Đ là đúng với quy định tại khoản 2 điều 207, điều 228 BLTTDS.

Về nội dung: Đề nghị căn cứ khoản 1 điều 51, điều 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39, điều 97, điều 147, khoản 2 điều 207, điều 227, điều 228, điều 271, điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBNVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, Xử:

1. Về hôn nhân: cho chị Võ Thị H được ly hôn với anh Phạm Hải Đ 2. Về nuôi con chung: Giao con chung là Phạm Hải Đông, sinh ngày 11/11/2011 cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung là Phạm Thị Hải Xuân, sinh ngày 02/5/2013 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau, hai bên có quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.

3. Về tài sản và nợ: chị H và anh Đ đều không yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ, nên miễn xét.

4. Về án phí: chị H phải nộp án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu,chứng cứ có tại hồ sơ vụ án; lời trình bày của đương sự được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền: chị Võ Thị H khởi kiện xin ly hôn anh Phạm Hải Đ, Đ ký hộ khẩu thường trú tại: khối 11, phường T, thành phố V, tỉnh N. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh N theo quy định tại khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Về sự vắng mặt của bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án: Ngày 03/11/2021 Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh N thụ lý vụ án ly hôn giữa nguyên đơn chị Võ Thị H và bị đơn anh Phạm Hải Đ. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho anh Phạm Hải Đ qua người thân thích bố anh Đ là ông Phạm Hữu Lộc, anh Đ đã nhận được các thông báo của Tòa án nhưng anh có đơn xin giải quyết vụ án vắng mặt với lý do anh đang bận công việc ở xã Bình Thắng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre và dịch covid 19 diễn biến phức tạp nên không về được, tuy vắng mặt nhưng anh cũng đã có bản tự khai gửi về Tòa án (có xác nhận của bố anh là ông Phạm Hữu Lộc). Như vậy đương sự vắng mặt có lý do Tòa án không tiến hành hòa giải được và đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn là đúng với quy định tại khoản 2 điều 207, khoản 1 điều 228 BLTTDS.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: chị Võ Thị H kết hôn với anh Phạm Hải Đ trên cơ sở tự nguyện, Đ ký kết hôn vào ngày 21 tháng 6 năm 2011 tại Ủy ban nhân dân phường T, Thành phố V, tỉnh N. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh Đ là hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Xét quá trình chung sống giữa chị H và anh Đ thấy rằng: Sau khi kết hôn chị H và anh Đ chung sống hòa thuận được một thời gian đến năm tháng 6/2021 thì phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân từ đó đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm lối sống, nhiều mâu thuẫn không thể dung hòa được. Cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, tình cảm không còn nữa nên chị H xin được ly hôn, anh Đ đồng ý. Xét thấy cuộc sống chung của vợ chồng không có hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn anh Đ là phù hợp pháp luật quy định.

[2.2] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung, chị H và anh Đ thỏa thuận mỗi người nuôi một con, nguyện vọng của cháu Xuân là xin được ở với mẹ, nguyện vọng của cháu Đông là xin được ở với bố. Trên cơ sở xem xét nguyện vọng của các con, nguyện vọng của chị H, anh Đ, đồng thời để đảm bảo sự ổn định trong sinh hoạt, học tập và quyền lợi của các con, xét thấy cần xử: Giao cho anh Đ được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Phạm Hải Đông, sinh ngày 11/11/2011, giao cho chị H được quyền nuôi dưỡng con chung Phạm Thị Hải Xuân, sinh ngày 02/5/2013, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Hai bên có quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.

[2.3] Về tài sản và nợ: chị H và anh Đ đều không yêu cầu Tòa án can thiệp giải quyết về tài sản và nợ nên hội đồng xét xử miễn xét.

[2.4] Về án phí: chị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51, Điều 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 97, Điều 147, khoản 1 Điều 207, Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBNVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, Xử:

[1]. Về hôn nhân: Cho chị Võ Thị H được ly hôn anh Phạm Hải Đ.

[2]. Về nuôi con chung: Vợ chồng có hai con chung, xử:

- Giao con chung là Phạm Hải Đông, sinh ngày 11/11/2011 cho anh Đ được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ tuổi trưởng thành. Giao con chung Phạm Thị Hải Xuân, sinh ngày 02/5/2013 cho chị H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ tuổi trưởng thành. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Hai bên có quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.

[3]. Về án phí: chị Võ Thị H phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), chị H đã nộp đủ tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0009628 ngày 28 tháng 10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh N.

[4]. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về