TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH BÌNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 40/2024/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LY HÔN, NUÔI CON
Trong các ngày 23 tháng 02 và 18 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 500/2023/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2023, về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Ú, sinh năm 1990. Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
Địa chỉ tạm trú: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Tấn L, sinh năm 1990. Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
Chị Đặng Thị Ú vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin vắng mặt; anh Nguyễn Tấn L vắng mặt tại phiên tòa, không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn chị Đặng Thị Ú vắng mặt tại phiên tòa, có văn bản trình bày:
Về hôn nhân: Chị Đặng Thị Ú và anh Nguyễn Tấn L được mai mối, sau đó tự nguyện tìm hiểu được 03 tháng, rồi được gia đình hai bên tổ chức đám cưới vào năm 2008, có đăng ký kết hôn vào ngày 08/7/2010 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Sau khi cưới thì chị Ú và anh L sống bên gia đình anh L. Khi sống chung thì chị Ú mới biết anh L trước khi cưới đã thường xuyên tụ tập bạn bè để nhậu, chơi bời (đá gà, số đề, cá độ…); trong quá trình chung sống thì anh L thường hay chơi bời dẫn đến bể nợ, làm chị Ú phải bán xe, bán đất trong gia đình để có tiền trả nợ cho anh L. Chị Ú đã nhiều lần khuyên bảo nhưng anh L không thay đổi. Năm 2020, anh L chơi dẫn đến bể nợ thì chị Ú và anh L đi làm thuê tại Đồng Nai; nhưng anh L lên Đồng Nai thì không lo làm ăn mà còn chơi bời, gây thêm nợ nần khoảng 100.000.000 đồng; cha mẹ anh L mang tiền và chị Ú đã kiếm tiền trả nợ cho anh L; sau đó chị Ú mang 02 con về nhà cha mẹ chị Ú sống ly thân với anh L được 01 năm; do anh L năn nỉ và chị Ú bỏ qua nên chị Ú về chung sống với anh L vào năm 2021. Tuy nhiên, anh L vẫn không thay đổi; anh L nhậu hàng ngày, thường xuyên về kiếm chuyện cự cãi, đánh chị Ú và hai con, anh L lại gây nợ và chị Ú phải bán tài sản trong gia đình (02 máy xới) để trả nợ; do đó, chị Ú mang hai con về nhà cha mẹ chị Ú ở ấp T, xã T sinh sống và vợ chồng sống ly thân từ tháng 8/2023 đến nay. Trong thời gian ly thân thì cha mẹ chồng có đến khuyên chị Ú hàn gắn với anh L 01 lần, anh L có tìm chị Ú hàn gắn 02 lần, nhưng chị Ú thấy anh L vẫn đi nhậu. Nay chị Ú không còn tình cảm với anh L, mỗi người đều có cuộc sống riêng, nên chị Ú yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị Ú ly hôn với anh L.
Về con chung: Chị Đặng Thị Ú yêu cầu được quyền nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thị Huyền T, sinh ngày 16/4/2009, Nguyễn Tấn Đ, sinh ngày 06/7/2013 và không yêu cầu anh Nguyễn Tấn L cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bị đơn anh Nguyễn Tấn L: Anh L vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không có lý do. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa hòa giải 02 lần, thông báo về việc yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, nhưng anh L vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, không cung cấp văn bản ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị Ú, cũng không tham dự phiên họp – hòa giải 02 lần và phiên tòa 02 lần nên Tòa án không thu thập được lời khai, ý kiến của anh L đối với yêu cầu khởi kiện của chị Ú.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Đặng Thị Ú. Về hôn nhân: Chị Đặng Thị Ú được ly hôn với anh Nguyễn Tấn L. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Thị Huyền T, sinh ngày 16/4/2009, Nguyễn Tấn Đ, sinh ngày 06/7/2013 cho chị Ú được quyền nuôi dưỡng đến khi cháu T, cháu Đ mỗi cháu thành niên đủ 18 tuổi. Anh L không phải cấp dưỡng cho con do chị Ú không có yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết do không có yêu cầu.
Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm:
- Giấy chứng nhận kết hôn (Bản chính);
- Giấy khai sinh con chung Nguyễn Thị Huyền T, Nguyễn Tấn Đ (Bản sao);
- Bản tự khai ngày 20/11/2023 của chị Đặng Thị Ú (Bản chính).
- Biên bản lấy lời khai chị Đặng Thị Ú ngày 02/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình.
- Bản tự khai ngày 22/01/2024 của con chung Nguyễn Thị Huyền T, Nguyễn Tấn Đ (Bản chính);
-Văn bản xác minh v/v cư trú đối với anh Nguyễn Tấn L ngày 25/01/2024 của Công an xã T, huyện T (Bản chính).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Theo yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Ú và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật đang tranh chấp là “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2] Bị đơn anh Nguyễn Tấn L cư trú tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[1.3] Nguyên đơn chị Đặng Thị Ú được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn anh Nguyễn Tấn L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh L không có cung cấp ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ch hợp pháp của bị đơn; đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do; do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Ú, anh L theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.4] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành thu thập chứng cứ, nên thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham gia theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về hôn nhân: Chị Đặng Thị Ú yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Tấn L.
Hôn nhân giữa chị Ú và anh L được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, không bị cưỡng ép hoặc lừa dối; anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Chị Ú xác định trong quá trình chung sống thì anh L thường xuyên tụ tập bạn bè để nhậu, chơi bời (đá gà, số đề, cá độ…) gây nợ nần, chị Ú có cùng anh L trả nợ nhiều lần. Chị Ú và anh L có sống ly thân vào năm 2020, sau đó đoàn tụ vào năm 2021 nhưng anh L vẫn không thay đổi; do đó, chị Ú mang 02 con về nhà cha mẹ chị Ú ở ấp T, xã T và vợ chồng sống ly thân từ tháng 8/2023 đến nay mà không hàn gắn với nhau được.
Khoản 1 Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.
Từ trình bày của chị Ú cho thấy chị Ú và anh L đã không thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng từ tháng 8/2023 đến nay. Anh L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên họp – hòa giải 02 lần để tạo điều kiện cho anh chị hòa giải đoàn tụ với nhau, nhưng anh L không đến, cũng không có văn bản trình bày ý kiến, cho thấy anh L không có ý định muốn hàn gắn, đoàn tụ với chị Ú. Như vậy, có cơ sở xác định hôn nhân giữa chị Ú và anh L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.
Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.
Do đó, chị Đặng Thị Ú yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Tấn L là phù hợp theo quy định tại Điều 51, Điều 53 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên được chấp nhận.
[2.2] Về con chung:
Chị Ú xác định chị Ú và anh L có hai con chung tên Nguyễn Thị Huyền T, sinh ngày 16/4/2009, Nguyễn Tấn Đ, sinh ngày 06/7/2013. Chị Ú yêu cầu được quyền nuôi dưỡng cháu T, cháu Đ đến khi cháu T, cháu Đ mỗi cháu đủ 18 tuổi và chị Ú không có yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Anh L không cung cấp cho Tòa án ý kiến, yêu cầu đối với con chung.
Hiện nay, chị Ú đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu T, cháu Đ từ tháng 8/2023 đến nay, chị Ú đã làm tròn nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và cho cháu T, cháu Đ đi học. Mặt khác, cháu T, cháu Đ đã trên 07 tuổi, có văn bản ghi nguyện vọng muốn được tiếp tục sống chung với chị Ú.
Khoản 1, 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.” Do đó, căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của cháu T, cháu Đ như đã phân t ch, đồng thời xem xét nguyện vọng của cháu T, cháu Đ, xét thấy không cần thiết làm thay đổi hoàn cảnh sống ổn định của cháu T, cháu Đ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi cháu T, cháu Đ của chị Ú, là phù hợp theo quy định của pháp luật; anh L không phải cấp dưỡng cho cháu T, cháu Đ do chị Ú không có yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Đặng Thị Ú không yêu cầu Tòa án giải quyết; anh Nguyễn Tấn L không có ý kiến, yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.
[3] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử do đó được chấp nhận.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đặng Thị Ú phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; anh Nguyễn Tấn L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ ph Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Ú.
1. Về hôn nhân: Chị Đặng Thị Ú được ly hôn với anh Nguyễn Tấn L.
2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Thị Huyền T, sinh ngày 16/4/2009, Nguyễn Tấn Đ, sinh ngày 06/7/2013 cho chị Đặng Thị Ú được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi cháu Nguyễn Thị Huyền T, cháu Nguyễn Tấn Đ mỗi cháu thành niên đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Tấn L không phải cấp dưỡng cho cháu Nguyễn Thị Huyền T, cháu Nguyễn Tấn Đ do chị Đặng Thị Ú không có yêu cầu anh Nguyễn Tấn L cấp dưỡng cho con.
Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Tấn L không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Anh Nguyễn Tấn L không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị Đặng Thị Ú có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con của anh Nguyễn Tấn L.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Đặng Thị Ú và anh Nguyễn Tấn L không có yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Chị Đặng Thị Ú phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí lệ ph Tòa án số 0004398 ngày 30/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Bình. Như vậy, chị Ú đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Anh Nguyễn Tấn L không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con số 40/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 40/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Bình - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về