TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 38/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 20 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 42/2022/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2022 về Tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2022/QĐST- HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2022 giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1980;
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Viết T, sinh năm 1968;
Đều cư trú tại: Số nhà 534, đường L1, tổ 02, phường T1, thành phố T2, tỉnh T2.
(Tại phiên tòa vắng mặt chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Viết T).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, bản tự khai, ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày và có yêu cầu như sau:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Viết T được tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T1, thành phố T2 ngày 16/5/2017. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống bình thường, sau đó xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn về kinh tế, anh T tự quyết định mọi việc, không bàn bạc gì với chị L. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng từ năm 2020 cho đến nay vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến cuộc sống riêng của nhau. Nay chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị L đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Viết T.
- Về nuôi con chung: Vợ chồng có một con chung là con Nguyễn Ánh N, sinh ngày 07/9/2003 hiện con N đã trưởng thành nên chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.
- Về chia tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ chung tài sản của ai. Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của vợ chồng.
* Bị đơn anh Nguyễn Viết T trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Viết T và chị Nguyễn Thị L đều có đăng ký hộ khẩu thường trú tổ 02 phường T1 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T1, thành phố T2 vào ngày 16/5/2017. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc không có mâu thuẫn gì đến đầu năm 2022 chị L tự ý bỏ đi và nói là đi làm ăn xa. Chị L xin ly hôn, anh T không đồng ý ly hôn vì vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn. Anh T đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ.
- Về nuôi con chung: Vợ chồng có một con chung là con Nguyễn Ánh N, sinh ngày 07/9/2003, hiện con N đang học đại học.
- Về chia tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ chung tài sản của ai. Anh T không không có ý kiến gì về tài sản chung của vợ chồng.
* Đại diện tổ 2, phường T1, thành phố T2 cung cấp:
Chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Viết T đều có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 2, phường T1 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T1, thành phố T2 vào ngày 16/5/2017. Sau khi kết hôn anh T và chị L chung sống tại tổ 2, phường T1 đến khoảng đầu năm 2022 chị L tự bỏ đi, vợ chồng sống ly thân nhau từ đó đến nay. Vợ chồng có 01 con chung là cháu con Nguyễn Ánh N, sinh ngày 07/9/2003. Vợ chồng có tài sản chung, có vay nợ chung hay không thì địa phương không biết.
* Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến:
1. Về tố tụng:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Thẩm phán đã xác định đúng thẩm quyền và thụ lý vụ án; thực hiện đầy đủ các thủ tục cấp, tống đạt các văn bản tố tụng, quyết định đưa vụ án ra xét xử và thời hạn chuẩn bị xét xử được thực hiện đúng theo thủ tục tố tụng dân sự.
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Về thành phần tham gia xét xử và việc tiến hành thủ tục tố tụng tại phiên tòa được thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật.
- Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến nay nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình, có bản tự khai, giao nộp các tài liệu, chứng cứ tham gia đầy đủ theo triệu tập của Tòa án phục vụ cho việc giải quyết vụ án. Tòa án triệu tập nhưng bị đơn không đến Tòa án làm việc, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự.
2. Về nội dung:
- Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Nguyễn Viết T.
- Về nuôi con chung: Không phải giải quyết.
- Về chia tài sản: Không đặt ra giải quyết.
- Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:
I. Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị L có đơn đề nghị xin được vắng mặt tại phiên tòa, anh Nguyễn Viết T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo trình tự vắng mặt chị L và anh T.
II. Về nội dung:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh T được tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Chị L trình bày, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống bình thường, sau đó xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn về kinh tế, anh T tự ý quyết định mọi việc, không bàn bạc với chị L. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay. Anh T trình bày, vợ chồng chung sống hạnh phúc không có mâu thuẫn gì, đến đầu năm 2022 chị L tự ý bỏ đi. Đại diện tổ 2, phường T1, thành phố T2 cung cấp chị L đã bỏ đi từ khoảng đầu năm 2022 cho đến nay.
Chị L xin ly hôn, anh T không đồng ý ly hôn, song anh T không động viên được chị L quay về đoàn tụ, không có biện pháp nào để khắc phục mâu thuẫn. Tòa án triệu tập anh T đến Tòa án để tiến hành phiên hòa giải nhưng anh T không đến Tòa án. Xét thấy trên thực tế cuộc sống chung giữa chị L và anh T đã không còn tồn tại, tình yêu thương đối với nhau không còn, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy, áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận nguyện vọng xin ly hôn của chị L, xử cho chị L được ly hôn anh T.
[2] Về nuôi con chung: Chị L và anh T có 01 con chung là cháu Nguyễn Ánh N, sinh ngày 07/9/2003. Cháu N đã trưởng thành Tòa án không giải quyết về con chung.
[3] Về chia tài sản: Chị L và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung nên Tòa án không đặt ra giải quyết.
[4] Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 147, Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Nguyễn Viết T.
2. Về nuôi con chung: Không phải giải quyết.
3. Về chia tài sản: Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng chị L đã nộp tạm ứng án phí án phí tại biên lai số 0000580 ngày 19 tháng 4 năm 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí ly hôn sơ thẩm cho chị L.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Viết T có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hợp lệ./.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình (chồng không đồng ý ly hôn) số 38/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 38/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về