Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 65/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 65/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 22 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiền Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 144/2021/TLST - HNGĐ ngày 14/10/2021 về việc: “Tranh chấp Hôn nhân gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 30/11/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị C, sinh năm 1991. Địa chỉ: Xóm L, xã G, huyện G, tỉnh Nam Định.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1987. Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình.

(Chị C và anh H đều có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và trong quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn - chị Phạm Thị C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Hữu H tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn với nhau, được Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình đăng ký kết hôn vào ngày 24 tháng 9 năm 2009. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau cùng gia đình anh H, cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 07 năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau nên không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên từ ngày 20 tháng 8 năm 2017 đến nay chị và anh H chính thức sống ly thân không ai còn quan tâm đến ai nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể quay lại chung sống với nhau được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Về quan hệ con chung: Chị và anh H có hai con chung là Nguyễn Hoàng Yến N, sinh ngày 11/3/2011 và Nguyễn Hoàng An P, sinh ngày 14/9/2013 hiện cả 02 con đều đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả 02 con chung và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về quan hệ tài sản chung: Chị và anh H không có tài sản gì chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn đề nghị giải quyết vắng mặt có xác nhận của ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình, bị đơn - anh Nguyễn Hữu H trình bày: Anh đã nhận được Thông báo thụ lý của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình về việc ly hôn giữa anh và chị Phạm Thị C. Do công việc bận mải nên anh không thể có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án được do đó anh viết đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa (vắng mặt tại các phiên hòa giải, phiên họp và vắng mặt tại phiên tòa). Quan điểm của anh H về các mối quan hệ cụ thể như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Phạm Thị C kết hôn với nhau là tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc được 07 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống nên từ ngày 20 tháng 8 năm 2017 đến nay vợ chồng anh đã sống ly thân. Nay chị Phạm Thị C có đơn xin ly hôn anh, anh đồng ý ly hôn chị C.

Về quan hệ con chung: Anh và chị C có 02 con chung là Nguyễn Hoàng Yến N, sinh ngày 11/3/2011 và Nguyễn Hoàng An P, sinh ngày 14/9/2013. Ly hôn anh đồng ý nhường cả 02 con chung cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng.

Về quan hệ tài sản chung: Anh và chị C không có tài sản gì chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ.

Tại biên bản lấy lời khai của 02 cháu Nguyễn Hoàng Yến N, sinh ngày 11/3/2011 và Nguyễn Hoàng An P, sinh ngày 14/9/2013, cả 02 cháu N và P đều trình bày: Hiện nay cả 02 cháu đều sinh sống và học tập tại huyện G, tỉnh Nam Định cùng với chị C, cuộc sống của 03 mẹ con đang ổn định. Nếu bố mẹ các cháu ly hôn thì các cháu đều có nguyện vọng tiếp tục được ở cùng mẹ C để thuận tiện cho việc sinh hoạt và học tập.

Tại biên bản xác minh ngày 04 tháng 11 năm 2021, Ủy ban nhân dân xã T, huyện T cung cấp như sau: Anh Nguyễn Hữu H sinh năm 1987 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình. Anh H và chị Phạm Thị C tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình vào ngày 24/9/2009. Quá trình chung sống anh H và chị C có 02 con chung Nguyễn Hoàng Yến N, sinh ngày 11/3/2011 và Nguyễn Hoàng An P, sinh ngày 14/9/2013. Về tài sản chung và nợ chung của anh H và chị C địa phương không nắm được.Quan điểm của địa phương về việc giải quyết vụ án là: Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án , nguyên đơn là chị C đã thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật luật tố tụng dân sự, bị đơn là anh Nguyễn Hữu H thực hiện không đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Phạm Thị C được ly hôn anh Nguyễn Hữu H. Giao cho chị Phạm Thị C trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung Nguyễn Hoàng Yến N, sinh ngày 11/3/2011 và Nguyễn Hoàng An P, sinh ngày 14/9/2013, chị C không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị nên việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết. Về quan hệ tài sản chung và công nợ chung: Không có

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Xét thấy nguyên đơn là chị Phạm Thị C khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Hữu H, anh H có hộ khẩu thường trú tại thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đã thụ lý và giải quyết yêu cầu của chị C là đúng thẩm quyền.

Nguyên đơn là chị Phạm Thị C, bị đơn là anh Nguyễn Hữu H đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt chị C và anh H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ. Vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị C và anh Nguyễn Hữu H tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình vào ngày 24/9/2009 xác định là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chị C anh H mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Từ ngày 20 tháng 8 năm 2017 đến nay chị C và anh H chính thức sống ly thân không ai còn quan tâm đến ai nữa. Nay chị C có đơn xin ly hôn anh H, anh H cũng đồng ý ly hôn chị C. Từ những tình tiết nêu trên, xét thấy, tình trạng hôn nhân của chị C và anh H đã trầm trọng, đời sống chung trên thực tế không còn tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị C, xử cho chị C được ly hôn anh H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Xét thấy, hiện tại cả 02 con chung của anh H và chị C là Nguyễn Hoàng Yến N, sinh ngày 11/3/2011 và Nguyễn Hoàng An P, sinh ngày 14/9/2013, hiện đang do chị C trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn chị C có nguyện vọng được tiếp tục nuôi cả 02 con, anh H đồng ý nhường cả 02 con cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng, cả 02 con P và N đều có nguyện vọng muốn ở với chị C. Do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận nguyện vọng của chị C, anh H, cháu P và cháu N: Giao cho chị C trực tiếp nuôi con chung là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 luật Hôn nhân gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết, khi nào đương sự có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ, việc dân sự khác.

Về quan hệ tài sản chung: Không có.

Về án phí: Chị Phạm Thị C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị C được ly hôn anh Nguyễn Hữu H.

2. Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị C trực tiếp nuôi 02 con chung là Nguyễn Hoàng Yến N, sinh ngày 11/3/2011 và Nguyễn Hoàng An P, sinh ngày 14/9/2013. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết, khi nào đương sự có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ, việc dân sự khác.

Anh Nguyễn Hữu H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung.

3. Về quan hệ tài sản chung: Không có.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị C phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 (ba trăm ngàn) đồng chị C đã nộp tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0002224 ngày 14/10/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải thành án phí.

Án xử công khai sơ thẩm, chị Phạm Thị C, anh Nguyễn Hữu H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 65/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:65/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về