TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẬP, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 53/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH.
Trong ngày 26 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 154/2021/DSST- HNG§ Ngµy 12 th¸ng 10 n¨m 2021 về việc tranh chấp về Hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2021/QĐXXST ngày 10 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đinh Thị Ch (Tức Đinh Thị Tr), sinh ngày 14/4 /1967. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
Trú quán: Khu ĐA, xã ML, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ.
- Bị đơn: Anh Triệu Văn L (Tức Triệu Ngọc L), sinh năm 1964. Có mặt. Trú quán: Khu ĐA, xã ML, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo tại Tòa án nguyên đơn chị Đinh Thị Ch trình bày: Tôi và anh Triệu Văn L tự nguyện kết hôn. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Lương, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ năm 1986. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại Khu Đồng An, xã Mỹ Lương, huyện Yên Lập cho đến nay. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận được một thời gian thì sẩy ra mâu thuẫn do anh L thường xuyên uống rượu say, đánh chửi vợ con vô cớ, thiếu quan tâm đến gia đình Tôi và gia đình đã góp ý nhiều lần nhưng anh L không thay đổi, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không khắc phục được. Nên vợ chồng đã cắt đứt mọi liên hệ từ năm 2014 đến nay.
Nay tôi xin được ly hôn anh L.
Bị đơn anh Triệu Văn L trình bày: tôi và chị Đinh Thị Ch tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn năm 1987 tại UBND xã Mỹ Lương là đúng.
Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại Khu Đồng An, xã Mỹ Lương, huyện Yên Lập cho đến nay. Thời gian đầu vợ chồng hòa thuận, sau đó thì sẩy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm do tính tình không hợp nhau nên không thể thống nhất trong làm ăn, sinh hoạt. Chị Ch đã nhiều lần bỏ đi làm ăn nhưng tôi không nhất trí nhưng chị Ch vẫn trốn đi dẫn đến tình cảm vợ chồng có nhiều mâu thuẫn. Bản thân tôi thỉnh thoảng có uống rượu và thỉnh thoảng có đánh chị Ch do lúc đó chị Ch cư sử thiếu L độ và không đúng lúc.
Nay chị Ch xin ly hôn tôi không nhất trí ly hôn vì tôi không muốn con cái phải khổ và tôi vẫn còn tình cảm với chị Ch.
VÒ con chung: Chị Ch và anh L trình bày vợ chồng có ba con chung là: Triệu Thị Tr, sinh ngày 30/9/1984;
Triệu Văn Ng, sinh ngày 14/10/1989;
Triệu Văn H, sinh ngày 29/02/1992.
Sau ly hôn quan điểm của chị Ch và anh L là các con đã trưởng thành, lao động tự túc được nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, vay nợ và công sức: Chị Ch và anh L không đề nghị tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng, từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, đều thực hiện đúng quy định của Pháp luật; Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng, đối với nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Pháp luật. Kiểm sát viên có quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điều 51, khoản 1 điều 56, luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 điều 147; khoản 1 điều 227, khoản 1 điều 228, Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5, điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử : Cho chị Đinh Thị Ch ( Tức Đinh Thị Tr) được ly hôn anh Triệu Văn L (Tức Triệu Ngọc L).
Các mối quan hệ khác : Con chung, Tài sản chung, công nợ, công sức đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét;
Chị Ch phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của Pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ và toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án. Tòa án đã gửi thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho chị Ch, anh L để hòa giải theo quy định của pháp luật nhưng chị Ch không có mặt (Chị có đơn xin giải quyết vắng mặt) nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.
Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị Ch và anh Triệu Văn L tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Lương, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ năm 1986. Đây là một hôn nhân hợp pháp.
Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại Khu Đồng An, xã Mỹ Lương, huyện Yên Lập cho đến nay. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận được một thời gian thì sẩy ra mâu thuẫn do anh L thường xuyên uống rượu say, đánh chửi vợ con vô cớ, thiếu quan tâm đến gia đình, chị và gia đình đã góp ý nhiều lần nhưng anh L không thay đổi, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không khắc phục được. Nên vợ chồng đã cắt đứt mọi liên hệ từ năm 2014 đến nay.
Nay chị Ch xin được ly hôn anh L.
Anh L cũng xác nhận là vợ chồng có sẩy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm , tính tình không hợp nhau nên không thể thống nhất trong làm ăn, sinh hoạt. Chị Ch đã nhiều lần bỏ đi làm ăn anh không nhất trí, nhưng chị Ch vẫn trốn đi dẫn đến tình cảm vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, anh thỉnh thoảng có uống rượu và có đánh chị Ch, do lúc đó chị Ch cư xử thiếu L độ và không đúng lúc.
Nay chị Ch xin ly hôn anh không nhất trí ly hôn vì anh không muốn con cái phải khổ và anh vẫn còn tình cảm với chị Ch.
Sau khi xác minh tình trạng hôn nhân tại khu hành chính nơi chị Ch và anh L sinh sống thì đại diện khu cho biết chị Ch và anh L thường xuyên đi làm ăn xa nhà nên việc anh chị có mẫu thuẫn gì hay không thì khu không biết . Quan điểm của khu là đề nghị tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Kết quả xác minh tại hội Phụ nữ xã Mỹ Lương về tình trạng hôn nhân của chị Ch và anh L, cho thấy chị Ch và anh L thường xuyên sẩy ra mâu thuẫn và đã rất trầm trọng, anh chị đã cắt đứt mọi quan hệ từ năm 2014 đến nay. Để giải phóng và bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ, quan điểm của hội phụ nữ là đề nghị Tòa án giải quyết cho chị Ch được ly hôn anh L.
Xét thấy: Việc chị Ch trình bày tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên chị xin được ly hôn anh L là có căn cứ, đúng với thực tế và phù hợp với khoản 1điều 56 luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận. Còn anh L không nhất trí ly hôn là chỉ gây khó khăn cho chị Ch vì thực tế vợ chồng đã cắt đứt mọi quan hệ từ năm 2014 đến nay, nên không chấp nhận được.
VÒ con chung, tài sản chung, vay nợ và công sức: Chị Ch và anh L không đề nghị tòa án giải quyết nên hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Chị Ch phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của Pháp luật Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điều 51, khoản 1 điều 56, Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 điều 147; khoản 1 điều 227, khoản 1 điều 228, điều 235 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5, điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1.Về quan hệ hôn nhân:
Xử : Cho chị Đinh Thị Ch (Tức Đinh Thị Tr) ly hôn anh Triệu Văn L (Tức Triệu Ngọc L).
2. Về án phí: Chị Đinh Thị Ch phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn. Xác nhận chị Ch đã nộp tạm ứng 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số: A A/2020/ 0008356 ngày 12/ 10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ. Chị Ch đã nộp đủ án phí.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Triệu Văn L được quyền kháng cáo để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Báo cho chị Đinh Thị Ch được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 53/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 53/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Lập - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về