Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 05/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 05/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH 

Ngày 19 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 370/2021/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2021 về việc: Tranh chấp hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2022 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1985; địa chỉ cư trú: thôn Đ, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Tm trú: thôn Y, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. (Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1981; địa chỉ cư trú: thôn Đ, xã Đ, huyện L, Bắc Giang. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị C trình bày:

Tháng 12/2004, chị và anh Nguyễn Văn Đ có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Trước khi kết hôn, hai bên tự nguyện tìm hiểu và thống nhất kết hôn. Ban đầu vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung, hay xảy ra cãi nhau, to tiếng. Anh Đ không tu trí làm ăn, thường xuyên say rượu, đã nhiều lần đánh chửi, xúc phạm chị. Vợ chồng đã ly thân, nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn và không có trách nhiệm gì với nhau nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh Đ.

Về con chung: Chị và anh Đ có 02 người con chung là Nguyễn Thị H.T, sinh ngày 21/11/2005 và Nguyễn Nhật M, sinh ngày 04/11/2013. Ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cả 02 con chung. Chị không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Trường hợp anh Đ không đồng ý giao cả 02 con cho chị nuôi thì đề nghị Tòa án giải quyết cho chị và anh Đ mỗi người nuôi 01 con, chị có nguyện vọng nuôi con Nguyễn Thị H.T, giao cho anh Đ nuôi con Nguyễn Nhật M. Chị không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị và anh Đ tự thỏa thuận, nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Văn Đ trình bày:

Anh xác nhận điều kiện kết hôn, thời gian kết hôn như chị C trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian dài và đã có 02 người con chung là Nguyễn Thị H.T, sinh ngày 21/11/2005 và Nguyễn Nhật M, sinh ngày 04/11/2013.

Trong cuộc sống, vợ chồng có mâu thuẫn, sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Năm 2019 chị C tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ ở, anh cũng không rõ lý do gì, anh đã nhiều lần đến đón chị C, nhưng chị C không về. Mặc dù vợ chồng có mâu thuẫn nhưng anh vẫn còn tình cảm với chị C nên anh không đồng ý ly hôn. Trường hợp chị C vẫn cương quyết ly hôn thì anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Về con chung: Anh và chị C có 02 người con chung là Nguyễn Thị H.T, sinh ngày 21/11/2005 và Nguyễn Nhật M, sinh ngày 04/11/2013. Nếu vợ chồng ly hôn anh nguyện vọng được nuôi con Nguyễn Nhật M, giao cho chị C nuôi con Nguyễn Thị H.T. Anh không yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: Anh và chị C tự thỏa thuận, nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện; chị C và anh Đ không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án; nguyên đơn và bị đơn giữ nguyên lời trình bày như trên. Ngoài ra các đương sự còn trình bày:

- Chị Nguyễn Thị C trình bày: Lý do chị xin ly hôn là và anh Đ thường xuyên uống rượu, mỗi lần say rượu là hành hạ vợ con, đã nhiều lần chị bị anh Đ đánh, chị và anh Đ đã sống ly thân từ tháng 11/2019. Đến nay chị không còn tình cảm với anh Đ và đề nghị Tòa án cho được ly hôn.

Về con chung: Chị và anh Đ có hai con chung là Nguyễn Thị H.T, sinh ngày 21/11/2005 và Nguyễn Nhật M, sinh ngày 04/11/2013. Nếu ly hôn chị xin nuôi con Nguyễn Thị H.T, để anh Đ nuôi con Nguyễn Nhật M. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Để chị và anh Đ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Anh Nguyễn Văn Đ trình bày: Hiện nay anh vẫn còn tình cảm với chị C, anh không đồng ý ly hôn. Anh không đánh vợ, có lần anh chỉ đánh con. Chị C hiện nay đã bỏ về nhà mẹ đẻ, anh đến đón, nhưng chị C không về.

Nếu chị C cương quyết ly hôn, thì anh xin nuôi con Nguyễn Nhật M, giao cho chị C nuôi con Nguyễn Thị H.T. Anh không yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Anh và chị C tự thỏa thuận, nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến:

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía các đương sự, nguyên đơn và bị đơn đã chấp hành đúng các quy định Bộ luật tố tụng dân sự, Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều: 51, 56, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình ; Điều 147, Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử lý án phí, lệ phí. Xử:

- Về quan hệ vợ chồng: Cho chị Nguyễn Thị C được ly hôn anh Nguyễn Văn Đ.

Về con chung: Giao cho chị C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Nguyễn Thị H.T, sinh ngày 21/11/2005; giao cho anh Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Nguyễn Nhật M, sinh ngày 04/11/2013. Việc cấp dưỡng nuôi chung do các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, chị C và anh Đ có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị C và anh Đ thực hiện quyền này.

Về tài sản chung: Do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết:

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị C là nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Chị Dương Thị C là người có đơn khởi kiện xin ly hôn với Nguyễn Văn Đ. Nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự (viết tắt là BLTTDS) xác định quan hệ pháp luật là "Tranh chấp hôn nhân và gia đình".

[1.2] Anh Nguyễn Văn Đ là bị đơn có địa chỉ cư trú tại xã Đ, huyện LN, tỉnh BG. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị C và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn năm 2004, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện LN theo đúng quy định của Luật hôn nhân và gia đình, nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng: Căn cứ vào lời khai của các đương sự và các tài liệu chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa, xác định được: Chị C và anh Đ sau khi kết hôn đã sống hòa thuận, hạnh phúc một thời gian dài. Đến khoảng năm 2018 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn; theo chị C trình bày là do anh Đ thường xuyên uống rượu và hành hạ vợ con; còn theo anh Đ trình bày thì vợ chồng không có mâu thuẫn gì. Xét thấy: Từ năm 2018 chị C và anh Đ phát sinh nhiều mâu thuẫn, hai vợ chồng cãi nhau thường xuyên. Đến tháng 11 năm 2019 thì mâu thuẫn vợ chồng lại xảy ra, chị C đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần, vận động chị C và anh Đ về đoàn tụ, nhưng chị C vẫn giữ quan điểm xin ly hôn. Tại phiên tòa, một lần nữa Tòa án vận động chị C và anh Đ về đoàn tụ. Nhưng chị C xác định không còn tình cảm với anh Đ và không thể sống chung được với anh Đ. Chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không còn tình cảm với nhau, không có sự quan tâm chăm sóc nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, cho chị C được ly hôn anh Đ là phù hợp với Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị C và anh Đ có 02 con chung là Nguyễn Thị H.T, sinh ngày 21/11/2005 và Nguyễn Nhật M, sinh ngày 04/11/2013. Chị C có nguyện vọng được nuôi cả 02 con chung.

Anh Đ không đồng ý giao cho chị C nuôi dưỡng cả 02 con chung, anh đồng ý nuôi con Nguyễn Nhật M và giao cho chị C nuôi dưỡng con Nguyễn Thị H.T.

Xét thấy: Việc nuôi dưỡng và chăm sóc con chung là quyền và nghĩa vụ của cả bố và mẹ, các bên có nguyện vọng nuôi con là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên không thể giao cả hai con chung cho chị C nuôi được, mà cần giao cho mỗi người nuôi một con chung là phù hợp, cụ thể: Giao cho chị C nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị H.T và giao cho anh Đ nuôi dưỡng con chung Nguyễn Nhật M.

Việc cấp dưỡng nuôi con chung: Do các bên không yêu cầu, nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Sau khi ly hôn, chị Nguyễn Thị C và anh Nguyễn Văn Đ có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị C và anh Đ thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của người con, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc buộc một bên cấp dưỡng nuôi con chung khi đương sự có yêu cầu và theo qui định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản: Các đương sự tự thỏa thuận, nên không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí: Chị Nguyễn Thị C là nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đìnhtheo quy định của pháp luật.

[4] Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều: 51, 56, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Khon 1 Điều 28, 35, điểm b khoản 1 Điều 39, 144, khoản 4 Điều 147, Điều 150, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị C được ly hôn anh Nguyễn Văn Đ.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị C trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị H.T, sinh ngày 21/11/2005. Giao cho anh Nguyễn Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Nhật M, sinh ngày 04/11/2013.

Chị Nguyễn Thị C và anh Nguyễn Văn Đ có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị C và anh Đ thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị C phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng chị C đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số: 0013383 ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện LN, tỉnh BG. Xác nhận chị Dương Thị C đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

362
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 05/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:05/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về