TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiền Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 203/2020/TLST - HNGĐ ngày 14/10/2020 về việc: “Tranh chấp Hôn nhân gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 02/12/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số: 72/2020/QĐST-HNGĐ ngày 23/12/2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Bùi Thị C, sinh năm 1993 (Có mặt).
Bị đơn: Anh Lê Hồng M, sinh năm 1989 (Vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Thôn Lũ Phong, xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện về việc xin ly hôn, quá trình tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa nguyên đơn - chị Bùi Thị C trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lê Hồng M tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn với nhau, được Ủy ban nhân dân xã Tây Phong, huyện Tiền Hải đăng ký kết hôn vào ngày 15 tháng 11 năm 2012. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại gia đình nhà anh M ở thôn Lũ Phong, xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, cuộc sống chung vợ chồng chỉ hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 05 năm đầu, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên từ tháng 3 năm 2018 đến nay chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở Hải Phòng sinh sống và chính thức sống ly thân với anh M. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể quay về chung sống cùng anh M được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh M.
Về quan hệ con chung: Chị và anh M có 03 con chung là Lê Tiến C, sinh ngày 10/8/2013, Lê Hoàng N, sinh ngày 06/3/2015 và Lê Tường Vi, sinh ngày 02/11/2018, hiện nay con C và con N đang do anh M trực tiếp nuôi dưỡng còn con Vi đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Nguyện vọng của chị sau khi ly hôn là chị không có khả năng nuôi cả 03 con nên chị xin được tiếp tục trực tiếp nuôi con Vi và nhường con C và N cho anh M tiếp tục nuôi dưỡng để tránh sự xáo trộn cuộc sống của các con.
Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị và anh M không có tài sản gì chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ.
Về phía bị đơn: Tòa án đã triệu tập bị đơn là anh Lê Hồng M nhiều lần nhưng anh M không đến Tòa án để làm việc. Tòa án đã tiến hành xác minh và lấy lời khai của bố đẻ anh M là ông Lê Văn Thành, sinh năm 1970, trú tại thôn Lũ Phong, xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Tại biên bản lấy lời khai, ông Thành trình bày: anh M và chị C tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn với nhau và được ủy ban nhân dân xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đăng ký kết hôn vào ngày 15 tháng 11 năm 2012. Sau khi kết hôn anh M và chị C chung sống với nhau tại gia đình nhà ông tại thôn Lũ Phong, xã Tây Phong. Tuy nhiên đến năm 2018 chị C tự ý bỏ nhà đi để lại 02 con nhỏ cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng. Quá trình chung sống giữa chị C và anh M 03 con chung là Lê Tiến C, sinh ngày 10/8/2013, Lê Hoàng N, sinh ngày 06/3/2015 và Lê Tường Vi, sinh ngày 02/11/2018. Từ năm 2018 chị C bỏ đi thì 02 con C và N do anh M trực tiếp nuôi dưỡng cộng với sự giúp đỡ của vợ chồng ông trong việc trông nom, chăm sóc và đưa đón các cháu đi học. anh M hiện nay là nghề lái xe, thu nhập bình quân mỗi tháng khoảng 7.000.000đồng nên anh M đủ điều kiện để nuôi các con. Nay chị C có đơn xin ly hôn anh M, quan điểm của ông và gia đình ông cũng đồng ý ly hôn, về con chung, cả 02 cháu C và N đều có nguyện vọng được ở với bố nên ông đề nghị Tòa án giao cháu C và N cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Vi cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng.
Hiện nay anh M làm nghề lái xe, công việc bận và anh M cũng không muốn lên Tòa án để làm việc, mọi việc để chị C tự giải quyết mặc dù gia đình ông và anh M đã nhận được các văn bản tố tụng và giấy báo của Tòa án nhưng anh M không lên Tòa án làm việc.
Tại biên bản xác minh, UBND xã Tây Phong, huyện Tiền Hải cung cấp như sau:
Hiện nay anh Lê Hồng M và chị Bùi Thị C có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Lũ Phong, xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Anh Lê Hồng M và chị Bùi Thị C tự nguyện kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình vào ngày 15 tháng 11 năm 2012. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau. Hiện nay chị C và anh M đã sống ly thân mỗi người một nơi. Quá trình chung sống anh M và chị C có 03 con chung là Lê Tiến C, sinh ngày 10/8/2013, Lê Hoàng N, sinh ngày 06/3/2015 và Lê Tường Vi, sinh ngày 02/11/2018. Hiện tại con C và N đang do anh M trực tiếp nuôi dưỡng cùng với sự hỗ trợ của bố mẹ anh M là ông Thành và bà Thúy, điều kiện học tập và phát triển của 02 cháu vẫn bình thường và ổn định. anh M làm nghề lái xe thu nhập mỗi tháng khoảng 7.000.000đồng đến 8.000.000đồng. Con Vi hiện đang do chị C trực tiếp nuôi dưỡng.Về tài sản chung và công nợ chung đại diện địa phương không nắm được. Nay chị C có đơn xin ly hôn anh M, quan điểm của địa phương đề nghị Tòa án giao 02 con chung C và N cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo sự ổn định và phát triển của 02 cháu, giao con Vi cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng cho cháu Vi còn nhỏ.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 18/11/2020 của cháu Lê Tiến C, sinh ngày 10/8/2013, cháu C trình bày: Hiện tại cháu đang sinh hoạt và học tập ổn định cùng bố C ở xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình và cháu C có nguyện vọng xin được tiếp tục ở với bố nếu bố mẹ ly hôn.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:
- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án , nguyên đơn là chị C đã thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật luật tố tụng dân sự, bị đơn là anh Lê Hồng M không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho chị Bùi Thị C được ly hôn anh Lê Hồng M. Về con chung: Giao cho chị Bùi Thị C trực tiếp nuôi Lê Tường Vi, sinh ngày 02/11/2018, giao cho anh Lê Hồng M trực tiếp nuôi 02 con Lê Tiến C, sinh ngày 10/8/2013, Lê Hoàng N, sinh ngày 06/3/2015. Về tài sản chung và công nợ chung: Không đặt ra giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:
[1]Về áp dụng pháp luật tố tụng:
Xét thấy nguyên đơn là chị Bùi Thị C khởi kiện xin ly hôn anh Lê Hồng M, anh M có hộ khẩu thường trú tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đã thụ lý và giải quyết yêu cầu của chị C là đúng thẩm quyền.
Bị đơn là anh Lê Hồng M đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh M là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ. Vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị C và anh Lê Hồng M tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình vào năm 2012, xác định là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chị C anh M mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng hay cãi nhau dẫn đến cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc. Hiện tại chị C và anh M không còn chung sống cùng nhau, hai vợ chồng đã chính thức sống ly thân từ tháng 3 năm 2018 đến nay không ai còn quan tâm đến ai nữa. Xét thấy, tình trạng hôn nhân của chị C và anh M đã trầm trọng, đời sống chung trên thực tế không tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị C, xử cho chị C được ly hôn anh M là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
Về quan hệ con chung: Đối với con Lê Tường Vi, sinh ngày 02/11/2018 hiện đang do chị C trực tiếp nuôi dưỡng, ly hôn chị C có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con Vi và con Vi hiện chưa tròn 36 tháng tuổi nên Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cho chị C tiếp tục trực tiếp nuôi là phù hợp với quy định khoản 3 Điều 81 luật Hôn nhân gia đình. Đối với con Lê Tiến C, sinh ngày 10/8/2013, Lê Hoàng N, sinh ngày 06/3/2015 hiện tại đang sinh hoạt và học tập ổn định cùng anh M, cháu C có nguyện vọng tiếp tục được ở với bố, địa diện gia đình ông Lê Văn Th là bố đẻ anh M và đại diện chính quyền địa phương đều khẳng định anh M có đủ điều kiện để nuôi cả 02 con C, N và đều đề nghị Tòa án giao cả 02 con C và N cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo sự ổn định và phát triển bình thường của các con. Chị Cúc thỉnh thoảng có về thăm 02 con và khẳng định 02 con vẫn được chăm sóc đảm bảo và phát triển tốt, chị C không có khả năng nuôi cả 03 con chung được. Điều 69 Luật hôn nhân gia đình quy định: Cha mẹ có nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên. Do đó, mặc dù anh M không có văn bản thể hiện quan điểm đối với con chung nhưng Hội đồng xét xử xét thấy, để bảo đảm điều kiện tốt nhất cho sự ổn định (tránh sự xáo trộn trong cuộc sống) và phát triển của các con chung cần giao cho anh Lê Hồng M trực tiếp nuôi con Lê Tiến C và Lê Hoàng N là phù hợp với quy định Điều 69 và Điều 81 luật Hôn nhân gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết, khi nào đương sự có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ, việc dân sự khác.
Về quan hệ tài sản chung và công nợ: Chị Cúc trình bày vợ chồng không có tài sản gì chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ, anh M không có văn bản trình bày quan điểm nên không đặt ra giải quyết.
Về án phí: Chị Bùi Thị C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 56, Điều 69, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị C được ly hôn anh Lê Hồng M.
2. Về con chung: Giao cho chị Bùi Thị C trực tiếp nuôi Lê Tường Vi, sinh ngày 02/11/2018, giao cho anh Lê Hồng M trực tiếp nuôi 02 con Lê Tiến C, sinh ngày 10/8/2013 và Lê Hoàng N, sinh ngày 06/3/2015. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết, khi nào đương sự có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ, việc dân sự khác 3. Về quan hệ tài sản chung và công nợ: Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Chị Bùi Thị C phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 (ba trăm ngàn) đồng chị C đã nộp tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0009685 ngày 13/10/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải thành án phí.
Án xử công khai sơ thẩm, chị Bùi Thị C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 12/01/2021, anh Lê Hồng M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt theo quy định của pháp luật.
Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 04/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 04/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về