Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình - ly hôn, nuôi con, cấp dưỡng số 81/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 81/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/10/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON, CẤP DƯỠNG

Ngày 15 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 261/2021/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2021 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con, cấp dưỡng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 209/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 206/2021/QĐST- HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 254/2021/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thúy A, sinh năm 1989. Địa chỉ: ấp 3, xã PM, huyện CL, tỉnh Đồng Tháp.

Chỗ ở hiện nay: số 595, ấp Trung, xã TQ, huyện C, Đồng Tháp.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Nghỉn, sinh năm 1987. Địa chỉ: ấp 3, xã PM, huyện CL, tỉnh Đồng Tháp.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa sơ thẩm chị Nguyễn Thúy A là nguyên đơn trình bày:

- Về hôn nhân: Chị Thúy A và Anh Nghỉn chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn vào năm 2011 tại UBND xã PM, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thời giA đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, những năm gần đây phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do Anh Nghỉn thường xuyên đánh đập vợ con, ghen tuông vô cớ, xua đuổi chị Thúy A ra khỏi nhà. Chị Thúy A không hòa hợp với gia đình nhà chồng, Anh Nghỉn thì nghe lời cha mẹ. Nay chị Thúy A nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, không thể tiếp tục chung sống với Anh Nghỉn, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị Thúy A yêu cầu xin ly hôn với Anh Nghỉn.

- Về con chung: Chị Thúy A và Anh Nghỉn có 02 con chung tên Nguyễn Thị Quỳnh Như, sinh ngày 28/6/2012 và Nguyễn Minh Phúc, sinh ngày 06/8/2015. Hiện nay con chung đAg sống chung với chị Thúy A. Khi ly hôn chị Thúy A yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung và yêu cầu Anh Nghỉn cấp dưỡng nuôi 02 con chung hàng tháng, mỗi con chung bằng số tiền ½ tháng lương cơ sở tương ứng với thời giA thi hành án, thời giA cấp dưỡng được tính bắt đầu từ tháng 10/2021 cho đến khi 02 con chung đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nợ ai và cũng không cho ai mượn nợ.

Theo biên bản hòa giải ngày 05/7/2021, Anh Nguyễn Văn Nghỉn là bị đơn trình bày:

- Về hôn nhân: Anh Nghỉn trình bày, vợ chồng chung sống và có đăng ký kết hôn vào năm 2011 tại UBND xã PM, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Trong cuộc sống vợ chồng cũng xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng đã sống ly thân. Nhận thấy hôn nhân có hạnh phúc nên Anh Nghỉn đồng ý ly hôn với chị A.

- Về con chung: Chị Thúy A và Anh Nghỉn có 02 con chung tên Nguyễn Thị Quỳnh Như, sinh ngày 28/6/2012 và Nguyễn Minh Phúc, sinh ngày 06/8/2015, hiện nay cong chung đAg sống chung với chị Thúy A. Khi ly hôn Anh Nghỉn đồng ý giao 02 con chung cho chị A nuôi dưỡng, Anh Nghỉn đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung tên Nguyễn Minh Phúc, sinh ngày 06/8/2015 theo yêu cầu của chị A. Trường hợp nếu chị A không đồng ý với việc cấp dưỡng nuôi 01 đứa con chung của Anh Nghỉn thì Anh Nghỉn yêu cầu nuôi 02 đứa con chung và không yêu cầu chị A cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nợ ai và cũng không cho ai mượn nợ.

* Tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm:

- Giấy khai sinh con chung (bản sao).

- Giấy CMND tên Nguyễn Thúy A và sổ hộ khẩu (bản sao).

- Trích lục kết hôn (bản sao).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả trAnh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Nguyễn Thúy A có đơn yêu cầu được ly hôn, nuôi con, cấp dưỡng nuôi con với Anh Nguyễn Văn Nghỉn. Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quA hệ pháp luật trong vụ án là “TrAnh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con và cấp dưỡng”.

Anh Nguyễn Văn Nghỉn là bị đơn trong vụ kiện có địa chỉ ở ấp 3, xã PM, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Căn cứ vào khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Anh Nguyễn Văn Nghỉn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 02 nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Anh Nghỉn là phù hợp theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về quA hệ hôn nhân: Chị A, Anh Nghỉn chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy bA nhân dân xã PM, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp vào năm 2011, do đó hôn nhân giữa chị A và Anh Nghỉn là hợp pháp. Chị A cho rằng thời giA đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, những năm gần đây phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do Anh Nghỉn thường xuyên đánh đập vợ con, ghen tuông vô cớ, xua đuổi chị Thúy A ra khỏi nhà. Anh Nghỉn trình bày, trong cuộc sống vợ chồng cũng xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng đã sống ly thân. Nhận thấy hôn nhân không có hạnh phúc, không thể hàn gắn tình cảm nên Anh Nghỉn đồng ý ly hôn với chị A.

Từ những căn cứ nêu trên đủ cơ sở để xác định hôn nhân giữa chị A và Anh Nghỉn đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị A.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thị Quỳnh Như, sinh ngày 28/6/2012 và Nguyễn Minh Phúc, sinh ngày 06/8/2015. Hiện nay con chung đAg sống chung với chị Thúy A. Khi ly hôn chị Thúy A yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung và yêu cầu Anh Nghỉn cấp dưỡng nuôi 02 con chung hàng tháng, mỗi con chung bằng số tiền ½ tháng lương cơ sở tương ứng với thời giA thi hành án, thời giA cấp dưỡng được tính bắt đầu từ tháng 10/2021 cho đến khi 02 con chung đủ 18 tuổi. Anh Nghỉn đồng ý giao 02 con chung cho chị A nuôi dưỡng, Anh Nghỉn đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung tên Nguyễn Minh Phúc, sinh ngày 06/8/2015 theo yêu cầu của chị A. Trường hợp nếu chị A không đồng ý với việc cấp dưỡng nuôi 01 đứa con chung của Anh Nghỉn thì Anh Nghỉn yêu cầu được quyền nuôi 02 con chung và không yêu cầu chị A cấp dưỡng nuôi con.

Theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con ”.

Theo khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình quy định“Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con” và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình quy định “Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.” Hội đồng xét xử xét thấy, việc giao con chung cho chị A hay cho Anh Nghỉn nuôi dưỡng là cần xem xét về điều kiện, quyền lợi mọi mặt của con chung. Xét thấy từ khi chị A, Anh Nghỉn xảy ra mâu thuẫn đến nay, chị A là người trực tiếp chăm sóc con chung, lo lắng cho con chung đầy đủ. Bên cạnh đó, theo văn bản ghi ý kiến của cháu Như thì cháu Như có nguyện vọng được sống với chị A. Do đó để 02 con chung tên Nguyễn Thị Quỳnh Như, sinh ngày 28/6/2012 và Nguyễn Minh Phúc, sinh ngày 06/8/2015 cho chị A được tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Nghỉn phải cấp dưỡng nuôi 02 con chung hàng tháng, mỗi con chung bằng số tiền ½ tháng lương cơ sở tương ứng với thời giA thi hành án, thời giA cấp dưỡng được tính bắt đầu từ tháng 10/2021 cho đến khi 02 con chung đủ 18 tuổi là phù hợp theo quy định tại Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình.

Anh Nghỉn có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

- Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nợ ai và cũng không cho ai mượn nợ nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

* Về án phí:

Chị A phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, Anh Nghỉn phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy bA Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thúy A:

- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thúy A được ly hôn với Anh Nguyễn Văn Nghỉn.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thúy A được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung tên Nguyễn Thị Quỳnh Như, sinh ngày 28/6/2012 và Nguyễn Minh Phúc, sinh ngày 06/8/2015. Anh Nghỉn phải cấp dưỡng nuôi 02 con chung hàng tháng, mỗi con chung bằng số tiền ½ tháng lương cơ sở tương ứng với thời giA thi hành án, thời giA cấp dưỡng được tính bắt đầu từ tháng 10/2021 cho đến khi 02 con chung đủ 18 tuổi.

Anh Nghỉn có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

- Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nợ ai và cũng không cho ai mượn nợ nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị A phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị A đã nộp theo biên lai số 0012697 ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh. Như vậy tiền án phí chị A đã nộp xong.

Anh Nghỉn phải nộp 300.000 đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi con tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh.

Các đương sự được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình - ly hôn, nuôi con, cấp dưỡng số 81/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:81/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về