Bản án về tranh chấp đòi tài sản số 20/2023/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 20/2023/DS-ST NGÀY 22/08/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TÀI SẢN

Ngày 22/8/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận Thành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án tranh chấp đòi tài sản đã thụ lý số: 81/2023/TLST- DS, ngày 07/7/2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2023/QĐXXST- DS, ngày 02/8/2023; quyết định hoãn phiên tòa số: 33/2023/QĐST-DS, ngày 15 tháng 8 năm 2023 giữa:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thùy D, sinh năm 1971 (có mặt).

Trú tại: Khu phố Ngọc Khám, phường Gia Đông, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Bị đơn: Chị Trần Thị L, sinh năm 1975 (có mặt).

Trú tại: Khu phố Ngọc Khám, phường Gia Đông, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Quý D1, sinh năm 1967 (vắng mặt).

Trú tại: Khu phố Ngọc Khám, phường Gia Đông, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Người được ông D1 ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Thùy D, sinh năm 1971 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 06/7/2023 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thùy D trình bày:

Bà với chị Trần Thị L trước đây cùng công tác tại Trường tiểu học Gia Đông số 1, là đồng nghiệp.

Ngày 05/7/2013 bà có cho chị L vay số tiền 100.000.000đ, mục đích để chị L hùn vốn làm ăn với chị gái ở trong Miền Nam, vay không có thời hạn, khi nào cần sẽ báo trước 10 ngày, vay không có lãi suất, nhưng chị L có hứa nếu làm ăn được sẽ trả lãi. Giấy biên nhận đề ngày 05/7/2013 do chị L tự viết và ký.

Ngày 04/8/2013 bà lại cho chị L vay số tiền 10.000.000đ, chị L nói là vay nóng 15 ngày, vay không có lãi suất. Giấy biên nhận đề ngày 04/8/2013 do chị L tự viết và ký. Từ khi vay chị L không trả đồng lãi cũng như gốc cho bà. Cuối năm 2013 bà bắt đầu đòi thì chị L chỉ khất và tránh mặt. Sau đó bà bị ốm, bị tai biến nên không đòi được. Năm 2022 bà gọi điện đòi liên tục nhưng chị L chỉ khất lần khất lượt. Số tiền bà cho chị L vay là tiền của vợ chồng bà.

Nay bà yêu cầu chị L phải có nghĩa vụ trả cho vợ chồng bà số tiền 110.000.000đ. Bà không yêu cầu trả lãi.

Phía bị đơn là chị Trần Thị L trình bày:

Chị thừa nhận ngày 05/7/2013 có vay của bà D số tiền 100.000.000đ, mục đích để làm ăn, vay không có thời hạn, trong giấy vay tiền không thể hiện lãi suất nhưng hai bên thỏa thuận miệng là vay lãi 2.000đ/1 triệu/1 ngày. Giấy biên nhận ngày 05/7/2013 do chị tự viết và ký.

Ngày 04/8/2013 chị lại vay của bà D vay số tiền 10.000.000đ, thời hạn vay 15 ngày, lãi suất là 2.000đ/1 triệu/1 ngày. Giấy biên nhận đề ngày 04/8/2013 do chị tự viết và ký.

Hàng tháng chị đã trả cho bà D 6.000.000đ tiền lãi. Chị đã trả được khoảng 1 năm tiền lãi, số tiền lãi bao nhiêu chị không nhớ. Khi trả chỉ đưa tay, không viết giấy tờ gì. Năm 2014-2015 chị bị vỡ nợ. Sau khi vỡ nợ, chị bán nhà và đã trả cho bà D được 70.000.000đ, vì là chị em thân thiết nên khi trả hai bên chỉ đưa tay, không viết giấy tờ gì.

Bà D yêu cầu chị phải trả cho vợ chồng bà D số tiền 110.000.000đ thì chị không đồng ý, vì chị đã bà D 70.000.000đ rồi, chị chỉ đồng ý trả số tiền 40.000.000đ.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận Thành phát biểu ý kiến đã đánh giá việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa là đúng pháp luật. Việc tuân theo pháp luật của các đương sự cơ bản là đúng pháp luật.

Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 3, điều 26, 35, 39, 144, 147, 235, 264 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ điều 463, 466, 469 Bộ luật dân sự năm 2015.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thùy D.

- Buộc chị Trần Thị L phải có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Thùy D, ông Nguyễn Quý D1 số tiền 110.000.000đ.

- Về án phí: Chị L phải chịu án phí đối với yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại đơn khởi kiện bà Nguyễn Thị Thùy D yêu cầu chị Trần Thị L phải trả số tiền 110.000.000đ. Đây là vụ án tranh chấp đòi tài sản và Tòa án nhân dân thị xã Thuận Thành đã thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3, điều 26; điều 35; điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét thấy, tại giấy vay tiền đề ngày 05/7/2013 và ngày 04/8/2013 đã thể hiện chị L vay của bà D số tiền 110.000.000đ. Bà D trình bày chị L hứa nếu làm ăn được sẽ trả lãi nhưng chưa trả được đồng lãi nào. Chị L trình bày lãi suất là 2.000đ/triệu/ngày, trong giấy vay tiền không có thời hạn vay, do vậy cần xác định đây là hợp đồng vay có lãi. Do chị L không thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên bà D làm đơn khởi kiện yêu cầu chị L phải trả nợ.

Phía chị L thừa nhận có vay của bà D số tiền 110.000.000đ, hàng tháng chị đã trả cho bà D 6.000.000đ tiền lãi. Chị đã trả được khoảng 1 năm tiền lãi, số tiền lãi bao nhiêu chị không nhớ, khi trả chỉ đưa tay, không viết giấy tờ gì. Năm 2014-2015 chị bị vỡ nợ, chị bán nhà và đã trả cho bà D được 70.000.000đ, khi trả hai bên chỉ đưa tay, không viết giấy tờ gì. Chị chỉ đồng ý trả cho bà D số tiền 40.000.000đ. Phía bà D không thừa nhận việc chị L đã trả tiền lãi, không thừa nhận chị L đã trả 70.000.000đ tiền gốc. Chị L cũng không đưa ra được căn cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Nay bà D yêu cầu chị L phải có nghĩa vụ trả số tiền 110.000.000đ là có căn cứ chấp nhận. Bà D không yêu cầu trả lãi nên không xem xét.

[3] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí đối với yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điều 463, 466, 469, khoản 2 điều 155 Bộ luật dân sự năm 2015.

Căn cứ điều 235, 264, 266, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thùy D.

2. Buộc chị Trần Thị L phải có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Thùy D, ông Nguyễn Quý D1 số tiền 110.000.000đ (một trăm mười triệu đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu lãi suất đối với số tiền chưa thi hành án theo quy định tại điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2, Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30, Luật thi hành án dân sự.

3. Về án phí: Chị Trần Thị L phải chịu 5.500.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà D 2.750.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0006075, ngày 07/7/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Thành.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi tài sản số 20/2023/DS-ST

Số hiệu:20/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về