TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 508/2023/DS-PT NGÀY 27/07/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 27 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hxét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 113/2023/DS-PT ngày 09 tháng 03 năm 2023, về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 51/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh T bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1793/QĐPT, ngày 07 tháng 7 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Hữu T, sinh năm 1959; cư trú tại: Số 12B, khu phố Lộc D, phường Trảng B, thị xã Trảng B, tỉnh Tây N; có đơn xin xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Loan Th - Luật sư hoạt động tại Công ty luật TNHH MTV Thảo Tâm A thuộc Đoàn luật sư tỉnh T; có đơn xin xử vắng mặt.
- Bị đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm 1960; bà Trần Thị Tu, sinh năm 1964; cùng cư trú tại: Số 72, tỉnh lộ 6, khu phố Gia H, phường Trảng B, thị xã Trảng B, tỉnh T; vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Ông Bùi Phúc X - Luật sư, Công ty Luật Hợp danh Nam Trí V, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân thị xã Trảng B, tỉnh T.
Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân thị xã Trảng B: Ông Nguyễn Quốc Q - Phó Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã Trảng B là người đại diện theo ủy quyển (Giấy ủy quyền ngày 04/4/2023); có đơn xin xử vắng mặt.
2. Ông Trần Hữu L, sinh năm 1943; cư trú tại: Số 393, kênh Tân Hòa, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.
3. Bà Trần Thị Kim D, sinh năm 1949; cư trú tại: Khu phố Tân L, phường Gia L, thị xã Trảng B, tỉnh T; vắng mặt.
4. Ông Trần Hữu H, sinh năm 1951; cư trú tại: Xã An Ninh Đ, huyện Đức H, tỉnh Long An; vắng mặt.
5. Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1953; cư trú tại: Ấp Bào S, xã Đức Lập H, huyện Đức H, tỉnh Long An; vắng mặt.
6. Ông Trần Hữu Tr, sinh năm 1961; cư trú tại: khu phố Lộc D, phường Trảng B, thị xã Trảng B, tỉnh Tây N; vắng mặt.
7. Bà Trần Thị Tuyết H, sinh năm 1964; cư trú tại: khu phố An B, phường An T, thị xã Trảng B, tỉnh T; vắng mặt.
8. Bà Trần Thị Kim G, sinh năm 1957; cư trú tại: số 225, đường Hậu G, Phường 5, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của ông Trần Hữu L, bà Trần Thị Kim D, ông Trần Hữu H, ông Trần Hữu Tr, bà Trần Thị Tuyết H, bà Trần Thị Kim G: Ông Trần Hữu T, sinh năm 1959; cư trú tại: Số 12B, khu phố Lộc D, phường Trảng B, thị xã Trảng B, tỉnh Tây N là người đại diện theo ủy quyền (Hợp đồng ủy quyền ngày 07/4/2023); có đơn xin xử vắng mặt.
9. Bà Trần Ngọc Ch, sinh năm 1961; cư trú tại: ấp Thuận Hòa 1, xã Khánh N, huyện Đức H, tỉnh Long An; vắng mặt.
10. Bà Nguyễn Thị Kh, sinh năm 1966; cư trú tại: Khu tập thể Nông trường Cao su Suối D, thuộc ấp 4, xã Suối D, huyện Tân C, tỉnh T; vắng mặt.
11. Ông Nguyễn Trường C, sinh năm 1971; cư trú tại: khu phố Gia H, phường Trảng B, thị xã Trảng B, tỉnh T; vắng mặt.
12. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1956; chị Nguyễn Ngọc Thanh H, sinh năm 1983; chị Nguyễn Ngọc Thanh Tu, sinh năm 1985; anh Nguyễn Ngọc Thanh Đ, sinh năm 1991; cùng cư trú tại: Số 212, tổ 9, ấp 4, xã Suối D, huyện Tân C, tỉnh T; vắng mặt.
- Người kháng cáo: Bà Trần Thị H là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 26 tháng 12 năm 2022, Biên bản ghi lời khai và các lời khai tiếp theo nguyên đơn Ông Trần Hữu T trình bày:
Các thửa đất cụ Trần Thị M (là mẹ của bà Trần Thị H, bà Trần Thị Tu) được Ủy ban nhân dân (nay viết tắt là UBND) huyện Trảng B (nay là UBND thị xã Trảng B) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết tắt là GCNQSDĐ), cụ thể: GCNQSDĐ số 00996 QSDĐ/130/2004/QĐ-CT(HL) ngày 22-4-2004, đối với thửa 31 tờ bản đồ số 3 diện tích 517m2; GCNQSDĐ số H02358 ngày 27-6-2008, đối với thửa 32 tờ bản đồ số 3 diện tích 114,6m2 có nguồn gốc của cha mẹ ông là cụ Trần Gia Q và cụ Võ Thị C. Phần đất này do cha mẹ ông mua của ông Bùi Văn H từ năm 1954, cho cụ M ở nhờ để trông coi nhà máy xay lúa. Năm 1992, sau khi cha ông chết, ông cùng cụ C đã gửi đơn tranh chấp với nhiều hộ sinh sống trên đất của gia đình ông, trong đó có gia đình cụ M, bà Trần Thị H và Trần Thị Tu. Năm 1997, tại Phòng địa chính huyện Trảng B, cụ M đồng ý trả cho cụ C 01 phần trong tổng diện tích đất cụ C cho ở nhờ, đất cụ C trả tính từ ranh đất ông O đến nhà trên cụ M. Ngày 14-8-1998, UBND huyện Trảng B ra Quyết định số 742/UB-QĐ, trong đó có nội dung công nhận cụ M giao trả cho cụ C một phần đất có diện tích 141m2 chiều ngang cập tỉnh lộ 6 là 14,5m có sơ đồ kèm theo. Sau khi có quyết định, gia đình ông đã đến yêu cầu gia đình cụ M giao đất nhưng gia đình cụ M không giao. Đến năm 2008, gia đình ông liên hệ với Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh T, chi nhánh Trảng Bàng để kê khai đăng ký xin cấp GCNQSDĐ đối với phần đất cụ M giao trả thì được biết UBND huyện Trảng B đã cấp GCNQSDĐ cho cụ M.
Do đó, ông yêu cầu bà Trần Thị H, bà Trần Thị Tu trả cho anh chị em của ông phần đất có diện tích 141 m2 đất cây lâu năm và đất nuôi trồng thủy sản thuộc thửa số 31, 32, tờ bản đồ số 3, giáp tỉnh lộ 6, khu phố Gia Huỳnh, phường Trảng Bàng, thị xã Trảng B, tỉnh T do cụ M đứng tên GCNQSDĐ theo như Quyết định số 742/UB-QĐ ngày 14-8-1998; đồng thời, yêu cầu hủy một phần của 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ M đối với 141 m2 đất tranh chấp nêu trên. Gia đình ông không đồng ý bồi thường công sức tôn tạo gìn giữ cho bà T và bà Hoa vì ngoài phần đất ông tranh chấp thì phần đất còn lại bà T, bà Hoa đang sử dụng cũng là phần đất của gia đình ông cho gia đình cụ M sử dụng bù với có công sức đối với phần đất phải trả cho gia đình ông.
Bị đơn bà Trần Thị Tu, Trần Thị H thống nhất trình bày:
Phần diện tích đất Ông Trần Hữu T tranh chấp với bà T và bà H thuộc phần đất mà mẹ của bà là cụ Trần Thị M được UBND huyện Trảng B cấp GCNQSDĐ số 00996 QSDĐ/130/2004/QĐ-CT(HL) ngày 22-4-2004, đối với thửa 31 tờ bản đồ số 3 diện tích 517m2; GCNQSDĐ số H02358 ngày 27-6-2008, đối với thửa 32 tờ bản đồ số 3 diện tích 114,6m2. Hiện tại, phần đất này do chị em của bà gồm bà Trần Thị H và anh Nguyễn Trường C đang sử dụng. Đất tranh chấp do gia đình các bà sử dụng từ 1954 cho đến nay. Mặc dù phần đất này là do vợ chồng cụ C cho ở nhưng thời điểm cho phần đất này chỉ là cái hầm sâu, gia đình cha mẹ bà phải đổ đất rất nhiều lần mới có thể sử dụng được. Đến năm 1997 thì xảy ra tranh chấp giữa cụ M và cụ C, vì lúc đó mẹ bà bệnh, không muốn kéo dài tranh chấp nên mới đồng ý trả lại cho cụ C để cụ C không đòi lại đất nữa. Tuy nhiên từ năm 1998 đến nay, gia đình cụ C không ai đến nhận đất, nên gia đình bà tiếp tục nâng nền, xây nhà và quản lý, sử dụng ổn định và được UBND huyện Trảng B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, bà không đồng ý theo yêu cầu của ông Thoại.
Tại Văn bản số 354/UBND ngày 06-7-2022, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân thị xã Trảng B thể hiện:
Ngày 22-4-2004, UBND huyện Trảng B cấp GCNQSDĐ số 00996 QSDĐ/130/2004/QĐ-CT(HL) ngày 22-4-2004, đối với thửa 31 tờ bản đồ số 3 diện tích 517m2; ngày 27-6-2008 cấp GCNQSDĐ số H02358, đối với thửa 32 tờ bản đồ số 3 diện tích 114,6m2 cho cụ Trần Thị M. Nguồn gốc các thửa đất này trước đây là của cụ ông Trần Gia Q và cụ bà Võ Thị C là cha mẹ của Ông Trần Hữu T mua của ông Đinh Văn Hung diện tích 30 cao với giá 2000 đồng, khi mua có làm Tờ bán đứt đất được Hội đồng hương chính xã Gia Lộc xác nhận ngày 11 tháng 3 năm 1954. Sau khi mua ông Q và bà C để cho bà Trần Thị M ở nhờ trong khu nhà mới xay lúa, không có làm giấy tờ.
Năm 1997, bà Võ Thị C tranh chấp với 05 hộ dân trong đó có cụ Trần Thị M. Ngày 24-7-1997, Phòng địa chính huyện Trảng B tiến hành hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất giữa cụ C và cụ M, kết quả: “Bà M đồng ý trả lại phần đất từ ranh ông G đến nhà trên của tôi nhưng phải trừ ra khoản 0,5m và bà C cũng thống nhất”. Ngày 14-8-1998, UBND huyện Trảng B ban hành Quyết định số 472/UB-QĐ về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa cụ Võ Thị C với 05 hộ dân, trong đó có ghi nhận nội dung “Bà Trần Thị M giao trả cho bà C một phần đất có diện tích 141m2, chiều ngang cập tỉnh lộ 6 là 14,5m (có sơ đồ kèm theo).
Năm 10-11-2000, cụ M kê khai đăng ký đối với thửa đất 31 tờ bản đồ số 03 và được UBND huyện Trảng B cấp GCNQSDĐ số 00996 QSDĐ/130/2004/QĐ- CT(HL), ngày 22/4/2004 thửa đất số 31, tờ bản đồ số 3, diện tích 517m2, trong đó:
200 m2 thổ cư, 317 đất vườn - có 271,2 m2 trong lộ giới. Ngày 21-12-2000, cụ M kê khai đăng ký đối với thửa đất 31 tờ bản đồ số 03 và được cấp Giấy CNQSDĐ số H02358, ngày 27/6/2008 thửa đất số 32, tờ bản đồ số 3, diện tích 114,6 m2, loại đất nuôi trồng thủy sản cho cụ bà Trần Thị M.
Năm 2000, khi lập bản đồ địa chính tọa độ chính quy, phần diện tích 141m2 được đo chung trong thửa 31, 32, UBND huyện Trảng B có thiếu sót khi không tổ chức thực hiện Quyết định 472 dẫn đến việc khi cụ M kê khai xin cấp GCNQSDĐ, UBND thị xã Trảng B đã thiếu kiểm tra nên đã cấp các GCNQSDĐ cho cụ M sai diện tích, không đúng đối tượng và không phù hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật đất đai.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Ngọc Ch, bà Nguyễn Thị Kh, anh Nguyễn Trường C, bà Nguyễn Thị H, anh Nguyễn Ngọc Thanh Đ thống nhất trình bày:
Các đương sự thống nhất phần đất ông Thoại tranh chấp nguồn gốc là của cụ C cho gia đình cụ M ở nhờ. Tuy nhiên qua trình sử dụng đất đã lâu, cụ M được cấp GCNQSDĐ hợp pháp. Do đó, các đương sự không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của Ông Trần Hữu T.
Tại Bản án dân sự số 51/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh T quyết định:
Căn cứ vào Điều 166 của Bộ luật Dân sự; Điều 106 của Luật đất đai; Điều 12, Điều 26 và Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 về án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ông Trần Hữu T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Hữu L, bà Trần Thị Kim Dung, ông Trần Hữu Hạnh, bà Nguyễn Thị Kim Chi, ông Trần Hữu Trung, bà Trần Thị Kim Thu và Trần Thị Tuyết Hồng về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với bà Trần Thị H, bà Trần Thị Tu, Ủy ban nhân dân thị xã Trảng B, tỉnh T.
- Ông Trần Hữu T, ông Trần Hữu L, bà Trần Thị Kim Du ông Trần Hữu H, bà Nguyễn Thị Kim C, ông Trần Hữu Tr, bà Trần Thị Kim G và Trần Thị Tuyết H được quyền sử dụng phần đất 116m2 trong đó diện tích 92,1m2 cây lâu năm và 23,9m2 đất thủy sản nông nghiệp; tại khu phố khu phố Gia Huỳnh, phường Trảng Bàng, thị xã Trảng B, tỉnh T; tứ cận:
Đông giáp thửa 33; dài 3,12m + 2,34m + 2,57m + 6,14m + 15,89m; Tây giáp lộ giới quy hoạch, dài 14,5m;
Nam giáp thửa 33; dài 0,36m;
Bắc giáp phần đất còn lại của thửa 31 dài 9,18m; giáp thửa 32 dài 8,60m. (kèm theo Sơ đồ hiện trạng sử dụng đất số 480/SĐ-HT ngày 29-9-2022 – Hình 1).
- Buộc bà Trần Thị H, bà Trần Thị Tu, bà Trần Ngọc C, bà Nguyễn Thị Kh, anh Nguyễn Trường C, bà Nguyễn Thị Thanh, anh Nguyễn Ngọc Thanh Đ, chị Nguyễn Ngọc Thanh H, chị Nguyễn Ngọc Thanh T di dời phần nhà, nhà vệ sinh và tài sản cá nhân trên diện tích đất 116m2 để giao đất.
- Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00996 QSDĐ/130/2004/QĐ-CT(HL), Ủy ban nhân dân huyện Trảng B cấp ngày 22/4/2004 do cụ Trần Thị M đứng tên đối với thửa đất số 31, tờ bản đồ sổ 3, đối với diện tích 92,1m2 loại đất vườn.
- Hủy một phần Giấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H02358, Ủy ban nhân dân huyện Trảng B cấp ngày 27/6/2008 do cụ Trần Thị M đứng tên đối với thửa đất số 32, tờ bản đồ số 3, diện tích 23,9 m2, loại đất nuôi trồng thủy sản Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí thẩm định, đo vẽ, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/10/2022 bà H kháng cáo, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm bác toàn bộ đơn khởi kiện của ông Thoại.
Tại phiên tòa bà H xin vắng mặt, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà H trình bày: Toà án cấp sơ thẩm xác định sai quan hệ tranh chấp là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nên đề nghị huỷ bản án sơ thẩm. Bản án cấp sơ thẩm tuyên trả lại đất là không có căn cứ; vì Quyết định số 472/QĐ-UB ngày 14/8/1998, về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa cụ Võ Thị C với cụ Trần Thị M chưa có hiệu lực thi hành, nên chưa được thực hiện; hiện trạng đất đo đạc thực tế chưa đúng. Hiện nay tỉnh lộ 6 mở rộng đưởng 31m, nên diện tích đất ông Thoại đòi nằm trong tỉnh lộ 6 đã mở rộng; diện tích trả cho ông Thoại không đủ điều kiện tách thửa. Do đó, đề nghị huỷ bản án sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh: Về thủ tục tố tụng những người tiến hành tố tụng, các đương sự tuân thủ đúng theo quy định. Về nội dung kháng cáo của bà Hoa, người bảo vệ quyền lợi cho bà Hoa cho rằng Quyết định số 472/QĐ-UB ngày 14/8/1998 của UBND huyện Trảng B ghi rõ sau 15 ngày có hiệu lực pháp luật, nên Toà án cấp sơ thẩm xét xử buộc bị đơn phải trả lại 141m2 là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử, bác đơn kháng cáo của bà Hoa, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhận định:
- Đơn kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị H đúng theo quy định của pháp luật, hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1]. Theo đơn khởi kiện của Ông Trần Hữu T và quá trình làm việc tại tòa, nguyên đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phía Ông Trần Hữu T, đều có yêu cầu bị đơn bà Trần Thị H, Trần Thị Tu trả lại diện tích 141m2 đất, đã được UBND huyện Trảng B giải quyết tranh chấp đất đai tại Quyết định số 472/UB-QĐ ngày 14/8/1998, cụ Trần Thị M phải trả lại cho cụ Võ Thị C một phần đất, diện tích 141m2, chiều ngang cập tỉnh lộ 6 là 14,5m (BL: 19). Khi giải quyết vụ kiện, bản án sơ thẩm đã nhận định, áp dụng quan hệ dân sự, về việc: “Đòi tài sản” để xử lý vụ án là đúng pháp luật. Do đó, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phía bị đơn cho rằng bản án sơ thẩm xác định “Tranh chấp quyền sử dụng đất” là sai quan hệ tranh chấp là phù hợp, nhưng chưa đến mức vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
chỉ cần chỉnh sửa lại về việc: “Đòi tài sản” cho đúng yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp, nên không chấp nhận yêu cầu huỷ bản án sơ thẩm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phía bị đơn.
[2]. Nguồn gốc diện tích 141m2, thuộc thửa 31 và 32, tờ bản đồ số 3, tại khu phố Gia Huỳnh, phường Trảng Bàng, thị xã Trảng B, tỉnh T; thuộc một phần đất có nguồn gốc của cha, mẹ Ông Trần Hữu T là cụ Trần Gia Quyến, cụ Võ Thị C mua của cụ Đinh Văn Hung vào năm 1954, diện tích là 30 cao. Cụ Quyến và cụ C làm nhà máy xay lúa trên phần đất này và cho cụ Trần Thị M dựng nhà ở, để trông coi nhà máy xay lúa cho hai cụ. Năm 1992, cụ C tranh chấp đòi lại một phần đất do cụ M lấn chiếm thêm, tại Điều 2 Quyết định số 472/QĐ- UBND ngày 14/8/1998 UBND huyện Trảng B công nhận sự tự nguyện thỏa thuận thống nhất đồng ý giải quyết tranh chấp, với nội dung "Bà M đồng ý giao trả lại cho bà C phần đất có diện tích 141m2, chiều ngang cập tỉnh lộ 6 là 14,5m”. Được hai bên đương sự thừa nhận tại cấp sơ thẩm. Nay các con của cụ Q, cụ C yêu cầu bà H, bà T là con của cụ M đang quản lý, sử dụng đất trả lại và bản án sơ thẩm đã xem xét công sức quản lý, gìn giữ, tôn tạo và buộc bà H, bà T trả lại một phần đất 141m2 theo Quyết định số 472/QĐ- UBND ngày 14/8/1998 là phù hợp.
[3]. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng bản án sơ thẩm buộc bà H, bà T giao trả 141m2 không đúng vị trí thì thấy: Tại Quyết định số 472/QĐ- UBND ngày 14/8/1998 UBND huyện Trảng B công nhận cụ M trả lại cho cụ C 141m2, kèm theo Sơ đồ đất tranh chấp; tại Quyết định và Sơ đồ đất tranh chấp kèm theo, đều thể hiện là diện tích đất phải trả sau khi nhà nước tiến hành giải toả làm đường tỉnh lộ 6 (BL: 161, 162). Do đó, diện tích 141m2 cụ M phải trả cho cụ C không nằm trong phần đất làm đường tỉnh lộ 6. Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét thẩm định tại chỗ; đối chiếu với Sơ đồ đất tranh chấp phải trả cho cụ C và Văn Phòng đăng ký đất đai tỉnh T lập Sơ đồ hiện trạng sử dụng đất bà H, bà T phải trả cho các con của cụ C có diện tích, hình thể, vị trí đúng như nội dung Quyết định số 472/QĐ- UBND ngày 14/8/1998 UBND huyện Trảng B và Sơ đồ đất tranh chấp phải trả. Do đó, việc trình bày của người bảo vệ quyền lợi cho bị đơn chưa phù hợp nên không chấp nhận.
[4]. UBND thị xã Trảng B cũng thừa nhận việc cấp Giấy CNQSDĐ số 00996 QSDĐ/130/2004/QĐ-CT(HL) ngày 22/4/2004, thửa đất số 31, tờ bản đồ số 3, diện tích 517m2, trong đó: 200 m2 thổ cư, 317m2 đất vườn - có 271,2m2 trong lộ giới và Giấy CNQSDĐ số H02358 ngày 27/6/2008 thửa đất số 32, tờ bản đồ số 3, diện tích 114,6m2, loại đất nuôi trồng thủy sản cho cụ bà Trần Thị M, đã cấp luôn phần đất cụ M đồng ý giao trả cho cụ C 141m2 là sai đối tượng, không phù hợp với quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật đất đai. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm khi xem xét, giải quyết vụ án có quyền huỷ quyết định cá biệt, trái pháp luật, thuộc trường hợp không phải tính thời hiệu là đúng pháp luật. Sau khi có quyết định của bản án có hiệu lực pháp luật, các Cơ quan hành chính của thị xã Trảng B thực hiện việc điều chỉnh, cấp lại Giấy CNQSDĐ cho các đương sự đúng như nội dung quyết định của Toà án, theo quy định tại khoản 3 Điều 100 Luật đất đai năm 2013.
[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm hai bên đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. (Riêng bản án sơ thẩm buộc UBND thị xã Trảng B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là chưa phù hợp cần chỉnh sửa lại, cho đúng quy định).
[6]. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy lời trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn, không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận; bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không được chấp nhận; ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Bác đơn kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm, nên bị đơn phải chịu án phí phúc thẩm, nhưng do người cao tuổi nên được miễn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
I. Không chấp nhận đơn kháng cáo của bà Trần Thị H; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 51/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh T như sau:
Căn cứ Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 106 Luật đất đai năm 2013;
điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ông Trần Hữu T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Hữu L, bà Trần Thị Kim D, ông Trần Hữu Hạnh, bà Nguyễn Thị Kim C, ông Trần Hữu Tr, bà Trần Thị Kim G và Trần Thị Tuyết H về tranh chấp: “Đòi quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, đối với bà Trần Thị H và bà Trần Thị Tu.
- Ông Trần Hữu T, ông Trần Hữu L, bà Trần Thị Kim D, ông Trần Hữu Hạnh, bà Nguyễn Thị Kim C, ông Trần Hữu Tr, bà Trần Thị Kim G và Trần Thị Tuyết H được quyền sử dụng phần đất 116m2 (đo thực tế) trong đó diện tích 92,1m2 cây lâu năm và 23,9m2 đất thủy sản nông nghiệp; tại khu phố khu phố Gia Huỳnh, phường Trảng B, thị xã Trảng B, tỉnh T; tứ cận:
Đông giáp thửa 33; dài 3,12m + 2,34m + 2,57m + 6,14m + 15,89m; Tây giáp lộ giới quy hoạch, dài 14,5m;
Nam giáp thửa 33; dài 0,36m;
Bắc giáp phần đất còn lại của thửa 31 dài 9,18m; giáp thửa 32 dài 8,60m. (Kèm theo Sơ đồ hiện trạng sử dụng đất số 480/SĐ-HT ngày 29/9/2022 - Hình 1).
- Buộc bà Trần Thị H, bà Trần Thị Tu, bà Trần Ngọc C, bà Nguyễn Thị Kh, anh Nguyễn Trường C, bà Nguyễn Thị Thanh, anh Nguyễn Ngọc Thanh Đ, chị Nguyễn Ngọc Thanh H, chị Nguyễn Ngọc Thanh T di dời phần nhà, nhà vệ sinh và tài sản trên diện tích đất 116m2 để giao đất.
- Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00996 QSDĐ/130/2004/QĐ-CT(HL), Ủy ban nhân dân huyện Trảng B cấp ngày 22/4/2004 do cụ Trần Thị M đứng tên đối với thửa đất số 31, tờ bản đồ sổ 3, đối với diện tích 92,1m2 loại đất vườn.
- Hủy một phần Giấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H02358, Ủy ban nhân dân huyện Trảng B cấp ngày 27/6/2008 do cụ Trần Thị M đứng tên đối với thửa đất số 32, tờ bản đồ số 3, diện tích 23,9 m2, loại đất nuôi trồng thủy sản.
2. Chi phí tố tụng đo vẽ, xem xét thẩm định và định giá tài sản: Bà Trần Thị H và bà Trần Thị Tu có nghĩa vụ hoàn lại cho Ông Trần Hữu T 23.455.000 (Hai mươi ba triệu bốn trăm năm mươi lăm nghìn) đồng.
3. Án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Trần Thị Tu, bà Nguyễn Thị Kh, anh Nguyễn Trường C, và anh Nguyễn Ngọc Thanh Đ mỗi người phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.
Bà Trần Thị H, bà Trần Ngọc C và bà Nguyễn Thị H được miễn án phí. II. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trần Thị H được miễn.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
III. Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp đòi quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 508/2023/DS-PT
Số hiệu: | 508/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về