Bản án về tranh chấp dân sự ranh giới quyền sử dụng đất số 49/2020/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LV, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 49/2020/DS-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ RANH GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Vào các ngày 10 và 16/7/2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện LV, tỉnh Đồng Tháp xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số: 55/2019/TLST-DS, ngày 18/02/2019, về việc “Tranh chấp dân sự ranh giới quyền sử dụng đất”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2020/QĐXXST-DS, ngày 01/6/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 66/2020/QĐST-DS ngày 24/6/2020 giữa.

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H Y, sinh năm 1957; địa chỉ cư trú: Số 233, khóm Bình Hòa, thị trấn Lấp Vò, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện hợp pháp của bà Y có anh Lê Anh H, sinh năm 1978; địa chỉ cư trú: Số 233, khóm Bình Hòa, thị trấn Lấp Vò, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 26/6/2020).

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1937; địa chỉ cư trú: Số 234, khóm Bình Hòa, thị trấn Lấp Vò, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện hợp pháp cho bà X: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1986; địa chỉ: Số 187, khóm Bình Thạnh 2, thị trấn Lấp Vò, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 25 tháng 02 năm 2019).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lê Anh H, sinh năm 1978;

2. Chị Lê Thị Hồng D, sinh năm 1985;

3. Chị Bùi D H, sinh năm 1981;

Cùng cư trú: Số 233, khóm Bình Hòa, thị trấn Lấp Vò, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.

4. Anh Nguyễn Hiền Nh, sinh năm 1970;

5. Chị Lương Thị Th, sinh năm 1972;

6. Anh Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1975;

7. Anh Nguyễn Hiền H, sinh năm 1994;

8. Chị Nguyễn Lương Th V, sinh năm 1996;

Cùng địa chỉ cư trú: Số 234, khóm Bình Hòa, thị trấn Lấp Vò, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện hợp pháp cho anh N, chị T, anh P, anh H, chị V: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1986; địa chỉ: Số 187, khóm Bình Thạnh 2, thị trấn Lấp Vò, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 25 tháng 02 năm 2019).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, biên bản tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Nguồn gốc đất là của ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị T là ông bà ngoại của bà Y để lại. Vào năm 1966 có cho ông Trần Văn S ở nhờ, sau đó ông S bán căn nhà cho ông Nguyễn Văn V (chồng bà X) để trả lại đất cho bà Y, nhưng ông Vạn và bà X cố tình trì hoãn không dỡ nhà trả lại đất mà tiếp tục ở từ đó đến nay. Đến năm 2012 bà X và các con xây lại nhà kiên cố, bà Y có báo chính quyền địa phương đề nghị tạm ngừng việc xây nhà. Đến năm 2013 anh Nguyễn Hiền Nh là con bà X đấu nối mái che tạm kế nhà bà X làm chỗ dệt chiếu, lúc này bà Y có trồng trụ đá để ngăn chặn việc lấn chiếm và chờ địa phương giải quyết. Cuối năm 2014 anh N sửa chữa xây dựng thành ngôi nhà hoàn chỉnh và bà Y làm đơn yêu cầu Ủy ban thị trấn giải quyết. Ngày 08/01/2015 Ủy ban thị trấn Lấp Vò hòa giải yêu cầu bà X và anh N không được xây cất lấn chiếm, bà X và anh N đồng ý và thống nhất ký tên. Nhưng sau đó bà X và anh N lại tiếp tục xây nhà, bà Y làm đơn yêu cầu và được Ủy ban nhân dân thị trấn Lấp Vò hòa giải lần 02 ngày 15/12/2017 nhưng không thành. Ranh đất tranh chấp giữa thửa đất số 114c tờ bản đồ số 5a do bà Y đứng tên với thửa 114a tờ bản đồ số 5a do bà X đứng tên. Năm 1991 bà X được cấp 300m2 đất, sau đó làm đường, nạo vét kênh, đến nay theo đo đạc thì đất bà X còn lại là 254,4m2 + 60,6m2 = 315m2 tăng so với giấy cấp ban đầu là không hợp lý, thể hiện là bà X lấn chiếm đất của bà Y. Theo tờ thuận chia ngày 12/8/1966 thì đất của bà Y có diện tích là 4.296m2, nhưng theo sơ đồ đo đạc thực tế ngày 22/3/2019 thì diện tích chỉ còn 3.058,5m2 là thiếu. Công văn 127 ngày 16/9/2019 của Ủy ban Huyện thì trả lời thửa đất của bà Y không đúng vì theo đo đạc ngày 22/3/2019 thì diện tích chỉ còn 3.058,5m2 so với diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Y 2.600m2, dư 758m2 là không chính xác, đúng chỉ dư 458,5m2.

Nay bà Y yêu cầu Bà Nguyễn Thị X, anh Nguyễn Hiền Nh (Vĩnh), Chị Lương Thị Th, Anh Nguyễn Văn Ph, anh Nguyễn Văn H, Chị Nguyễn Lương Th V trả lại đất lấn chiếm 17,7m2 theo sơ đồ đo đạc gồm các mốc M4, M16, M5 về M4, thuộc thửa đất số 114a, tờ bản đồ số 5a, đất tọa lạc khóm Bình Hòa, thị trấn Lấp Vò. Phần đất diện tích 42,9m2 theo sơ đồ đo được thực tế gồm các mốc M3,4,5 về M3 bà Y đồng ý giao cho hộ bà X tiếp tục sử dụng và yêu cầu hộ bà X trả giá trị đất, theo giá do Hội đồng định giá định.

Buộc anh Nguyễn Hiền Nh (Vĩnh), Chị Lương Thị Th, anh Nguyễn Văn H, Chị Nguyễn Lương Th V tháo dỡ phần nhà ở, nhà tắm nằm trên diện tích lấn chiếm 17,7m2 theo các mốc M4, M16, M5 về M4 để bà Y làm lại hàng rào thẳng theo hiện trạng trước đây.

Tại văn bản ghi ý kiến ngày 28/12/2019, biên bản tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản hòa giải và tại phiên tòa Chị Nguyễn Thị T là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên trình bày:

Nguồn gốc đất là của vợ chồng bà X sử dụng từ trước năm 1990, diện tích 300m2, thửa 114A, tờ bản đồ số 5a. Đến ngày 22/10/1991 bà X được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 1994 bà X có cho con trai tên Nguyễn Hiền Nh cất nhà với diện tích khoảng 60m2. Năm 2013 anh N sửa lại nhà tắm và xây thêm phần nhà phía sau gần hàng rào của bà Y, phần xây dựng thêm nằm trên thửa đất của bà X. Khi anh N xây nhà và sửa nhà thì hộ bà Y không có tranh chấp.

Nay bà X và những người trong hộ của bà X không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Yêu cầu giữ nguyên hiện trạng đang sử dụng.

Chị Bùi D H là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày: Chị Hạ thống nhất theo ý kiến của bà Y và anh Hoàng.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, kể từ khi thụ lý cho đến khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đúng quy định của pháp luật.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đúng quy định của pháp luật.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Theo đơn khởi kiện của Bà Nguyễn Thị H Y thì Tòa án xác định quan hệ tranh chấp trong vụ kiện này là “Tranh chấp về dân sự ranh giới quyền sử dụng đất”, đất tranh chấp và địa chỉ của bị đơn tại huyện LV, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Huyện LV, theo quy định tại khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Chị Lê Thị Hồng D có đơn xin vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Chị Lê Thị Hồng D.

[3] Về nội dung tranh chấp:

[3.1] Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều trình bày thống nhất là phần đất của Bà Nguyễn Thị H Y thửa 114c, tờ bản đồ 5a, diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 2600m2, mục đích sử dụng: 300m2 ODT + 2300m2 CLN. Còn đất của Bà Nguyễn Thị X thửa 114a, tờ bản đồ 5a, diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 300m2 (T), cả hai thửa đất trên đều toạ lạc tại thị trấn Lấp Vò, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.

Ranh giới quyền sử dụng đất tranh chấp giữa Bà Nguyễn Thị H Y với Bà Nguyễn Thị X được xác định là ranh giới đất liền kề giữa thửa 114c, với Thửa 114a.

Diện tích ranh tranh chấp giữa bà Y với bà X theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 13/3/2019 và Sơ đồ đo đạc ngày 22/3/2019 là: 60,6m2 (M3, M4, M16, M5 về M3): gồm phần tranh chấp thứ 1: 42,9m2 (M3, M4, M5 về M3) và phần tranh chấp thứ 2: 17,7m2 (M4, M16, M5 về M4).

Hai bên thống nhất sơ đồ đạc, biên bản thẩm định tại chỗ và và biên bản định giá tài sản có trong hồ sơ.

[3.2] Theo công văn số 127/UBND-NC, ngày 16/9/2019 của Ủy ban nhân dân huyện LV cho thấy: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Y và bà X về trình tự thủ tục đảm bảo đúng theo quy định tại thời điểm cấp giấy, khi cấp giấy đều không có đo đạc thực tế, các hộ giáp ranh không có ký tên, giấy chứng nhận của bà X được cấp thuộc trường hợp người sử dụng đất kê khai, giấy chứng nhận của bà Y được cấp thuộc trường hợp thừa kế. Tại phiên toà đại diện bà X là anh Hoàng xác định quyền sử dụng đất mẹ anh là bà Y được thừa kế từ bà ngoại anh là bà Liễu trước đây cũng thuộc dạng người sử dụng đất kê khai. Từ đó cho thấy không xác định được ranh giới 02 thửa 114c và 114a giữa hộ bà Y và bà X theo hồ sơ cấp đất.

[3.3] Theo Sơ đồ đo đạc ngày 22/3/2019 thể hiện: Phần diện tích còn lại của bà Y: 3058,5m2 (M2, M3, M4, M16, M5, M13, M14, M12, M15, M11, M10, M9, M8, M7, M6 về M2). Phần diện tích còn lại của bà X: 254,4m2 (M1, M2, M3, M5 về M1).

Đối chiếu diện tích đất từ sơ đồ đo đạc với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho thấy hiện trạng thực tế sử dụng của hộ bà Y nhiều hơn đến 458,5m2 so với giấy chứng nhận. Còn hiện trạng thực tế sử dụng của bà X ít hơn 45,6m2 so với giấy chứng nhận.

Mặc khác nếu cộng phần còn lại của bà X: 254,4m2 với phần tranh chấp 60,6m2 (M3, M4, M16, M5 về M3), thì diện tích của bà X sẽ là 315m2, so với 300m2 được cấp thì nhiều hơn 15m2, độ chênh lệch thấp.

[3.4] Năm 1994 bà X cho ông Nhơn cất nhà diện tích 60m2, lúc này hai bên chưa phát sinh tranh chấp ranh giới. Đến năm 2012 khi bà X xây lại nhà kiên cố và 2013 khi anh N đấu nối thêm mái che rồi sửa lại nhà tắm, xây thêm phần nhà phía sau kiên cố thì bà Y mới báo chính quyền giải quyết tranh chấp, không báo chính quyền yêu cầu lập biên bản tạm ngừng việc xây dựng của anh N. Từ đó cho thấy bà Y đã thừa nhận phần diện tích 60,6m2 này là của bà X. So sánh phần diện tích này với diện tích đo đạc thực tế một phần nhà của ông Nhơn gồm: 30,4m2 trên phần đất bà X và 36,9m2 trên phần tranh chấp thứ 1, tổng 67,3m2 là tương đối phù hợp và bà Y cũng đã kéo hàng rào trụ đá lưới B40 sát vách nhà anh N.

[3.5] Xét hiện trạng sử dụng phần đất tranh chấp thứ hai, diện tích 17,7m2 (M4, M16, M5 về M4) Nguyên đơn cho rằng phần đất này là của mình sử dụng để trồng cây như Sầu Đâu, Gòn, nhưng thực tế thì cây sầu đâu và các cây Gòn nằm sát ranh đất về phía đất của nguyên đơn. Còn trên đất tranh chấp hiện có một phần nhà của ông Nhơn 10,3m2, ngoài ra các bên đương sự không sử dụng vào việc gì khác. Phần đất này được anh N xây thêm phần sau kiên cố, vách tường, lót gạch từ năm 2013 và sử dụng cho đến nay.

[3.6] Từ những phân tích trên cho thấy yêu cầu khởi kiện của bà Y là không có căn cứ, Hội đồng xét xử không chấp nhận. Căn cứ Điều 175 và Điều 176 Bộ luật dân sự. Xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa thửa 114c, tờ bản đồ 5a, do hộ Bà Nguyễn Thị H Y đứng tên với thửa 114a, tờ bản đồ 5a, do Bà Nguyễn Thị X đứng tên được xác định là các đoạn thẳng nối từ mốc 5, mốc 16 và mốc 4 theo chiều thẳng đứng từ không gian và lòng đất. Vật kiến trúc và cây trồng của bên nào vướng vào đường ranh thì bên có có trách nhiệm tháo dở, di dời.

Hộ bà Y và bà X được đến Cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đúng diện tích đất thực tế sử dụng theo sơ đồ đo đạc ngày 22/3/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện LV.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do bà Y không được chấp nhận yêu cầu, nên bà Y phải chịu án phí theo quy định khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

[5] Tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá: Do bà Y không được chấp nhận yêu cầu, nên bà Y phải chịu toàn bộ theo quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự (đã thu và chi xong).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 166, Điều 170, Điều 179, Điều 203 Luật đất đai, Điều 175, Điều 176 Bộ luật Dân sự; khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Nguyễn Thị H Y.

Ranh giới quyền sử dụng đất giữa hộ Bà Nguyễn Thị H Y thửa 114c, tờ bản đồ 5a với Bà Nguyễn Thị X thửa 114a, tờ bản đồ 5a được xác định là các đoạn thẳng nối từ mốc 5, mốc 16 và mốc 4 theo sơ đồ đo đạc ngày 22/3/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện LV.

Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác.

Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, cắt tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Hộ Bà Nguyễn Thị H Y và Bà Nguyễn Thị X được đến Cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng với diện tích đất thực tế sử dụng theo sơ đồ đo đạc ngày 22/3/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện LV.

Tiền án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng:

Bà Nguyễn Thị H Y chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí bà Y đã nộp theo biên lai số BH/2017/0007040 ngày 15/02/2019. Bà Nguyễn Thị H Y được nhận lại 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số BH/2018/0006344 ngày 11/10/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện LV.

Tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá là 6.482.000 đồng (Sáu triệu bốn trăm tám mươi hai nghìn đồng) Bà Nguyễn Thị H Y chịu (Đã thu và chi xong).

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật Thi hành án dân sự;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp dân sự ranh giới quyền sử dụng đất số 49/2020/DS-ST

Số hiệu:49/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về