TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 207/2023/DS-PT NGÀY 05/05/2023 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ RANH GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong các ngày 13 tháng 02 năm 2023 và ngày 05 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 412/2022/TLPT-DS ngày 25 tháng 11 năm 2022, về việc “Tranh chấp dân sự về ranh giới quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 65/2022/DS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đ.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 459/2022/QĐ-PT ngày 22 tháng 12 năm 2022, giữa:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị Mỹ T, sinh năm 1967;
Địa chỉ: F khóm A, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ.
- Bị đơn: Võ Thị T1, sinh năm 1945;
Người đại diện hợp pháp của bà T1: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1972. Là người đại diện theo ủy quyền, văn bản ủy quyền ngày 01/01/2023.
Cùng địa chỉ: A khóm A, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Nguyễn Châu T2, sinh năm 1973;
2. Võ Thị Xuân T3, sinh năm: 1971;
3. Nguyễn Xuân T4, sinh năm: 1997;
4. Nguyễn Kim T5, sinh năm: 2008;
Người đại diện theo pháp luật Nguyễn Kim T5 là Nguyễn Châu T2, Võ Thị Xuân T3;
Cùng địa chỉ: F khóm A, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ;
5. Ngô Đức T6, sinh năm: 2003;
Địa chỉ: F khóm A, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ.
6. Nguyễn Văn H, sinh năm 1972;
7. Nguyễn Thị T7, sinh năm: 1969;
8. Nguyễn Thị C, sinh năm: 1975 (có mặt);
9. Nguyễn Thị V, sinh năm: 1981 (vắng mặt);
10. Nguyễn Văn H1, sinh năm: 1968;
11. Đặng Thị Kim N, sinh năm: 1976 (vắng mặt);
12. Nguyễn Tùng H2, sinh năm: 2007,
Người đại diện theo pháp luật của H2: là Nguyễn Văn H1 và Đặng Thị Kim N;
Cùng địa chỉ: A khóm A, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ.
13. Nguyễn Văn T8, sinh năm 1966;
14. Nguyễn Thị H3, sinh năm 1966;
15. Nguyễn Hồng N1, sinh năm 1999;
16. Nguyễn Hồng T9, sinh năm 2003;
Cùng địa chỉ: F khóm A, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ.
* Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Mỹ T là nguyên đơn;
* Kháng nghị: Theo Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 40/QĐ-VKS-DS ngày 14/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V.
Bà T, anh H, chị T10 có mặt tại phiên tòa. Các đương sự còn lại vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ T trình bày:
Năm 1993 Nguyễn Thị Mỹ T nhận chuyển nhượng diện tích 150,45 m2 của bà Nguyễn Thị N2, năm 1999 bà N2 tiếp tục chuyển nhượng 66,5 m2, tổng diện tích là 217m2 đất thổ, năm 1999 Nguyễn Thị Mỹ T được Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 217m2, thuộc thửa 1650, tờ bản đồ số 01, đất tọa lạc tại thị trấn L. Năm 2002 mở rộng Tỉnh lộ 851 Ủy ban nhân dân huyện bồi thường diện tích 40m2, chữ ký nhận trong các biên bản là đúng của Nguyễn Thị Mỹ T nhưng lúc đó chỉ nói với Nguyễn Thị Mỹ T là đền bù thiệt hại giá trị tài sản trên đất không phải đền bù bồi thường giá trị đất, thời gian này Ủy ban nhân dân huyện không thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phân diện tích mở rộng lộ, Nguyễn Thị Mỹ T nhận chuyển nhượng diện tích là 217m2 sau này Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ còn lại 165,6m2 thiễu so với diện tích lúc mua nên Nguyễn Thị Mỹ T xác định hộ bà Võ Thị T1 có đất giáp ranh với Nguyễn Thị Mỹ T lấn chiếm phần đất này. Năm 2012 thửa 1650 tách thành 2 thửa là thửa 104, diện tích 53,2m2 tờ bản đồ số 35 đất thổ, thửa 105 diện tích 112,4m2, tờ bản đồ số 35 đất thổ. Năm 2002 Nguyễn Châu T2 cất căn nhà gỗ, năm 2012 địa chính, Ủy ban nhân dân huyện xác định ranh đất ông T2 xây dựng căn nhà kiên cố như hiện nay tại thửa 104, diện tích 53,2 m2 tờ bản đồ số 35 đất thổ, phần đất này giữa bà T với ông T2 không tranh chấp gì trong vụ án này. Giáp với đất của bà T là đất của bà Võ Thị T1 thuộc một phần thửa 1090 (4) tờ bản đồ số 01 (46), phần đất này bà T1 được thừa kể từ bà Nguyễn Thị N2, bà Võ Thị T1 đứng tên và được cấp giấy quyền sử dụng đất năm 2002. Năm 2014 bà Võ Thị T1 đăng ký biến động cấp đổi sang bản đồ địa chính chính quy thành 3 thửa, thửa 04, 15 và 16 cùng tờ bản đồ số 46. Trong quá trình sử dụng đất hộ bà Võ Thị T1 lấn chiếm đất của Nguyễn Thị Mỹ T diện tích 51,7m2.
Nguyễn Thị Mỹ T xác định phần đất của bà T từ mốc M18 đến M17, M16, M15, M14, M13, M24, M25, M19 trở về mốc M18 theo sơ đồ đo đạc tranh chấp số 53/SĐ.ĐĐ/CNVP.ĐKĐĐ 2022 của Chi nhánh văn phòng đăng kí đất đai huyện L đo vẽ ngày 08/6/2022.
Nguyễn Thị Mỹ T xác định ranh đất của bà T với đất bà T1 từ mốc M18 đến M17, M16, M15, M14, M13 theo sơ đồ đo đạc tranh chấp số 53/SĐ.ĐĐ/CNVP.ĐKĐĐ 2022 của Chi nhánh văn phòng đăng kí đất đai huyện L đo vẽ ngày 08/6/2022.
Khi khởi kiện Nguyễn Thị Mỹ T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc hộ bà Võ Thị T1 trả lại cho Nguyễn Thị Mỹ T diện tích đất lấn chiếm 51,7 m2 thuộc phần thửa đất số 104, 105, tờ bản đồ số 35, địa chỉ thửa đất tại Khóm A, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ. Nay bà T yêu cầu Tòa án giải quyết hộ bà Võ Thị T1 trả diện tích 31,9m2 theo đo đạc thực tế từ mốc M18, đến M17, M16, M15, M14, M23, M22, M21, M19, M18 theo sơ đồ đo đạc tranh chấp số 53/SĐ.ĐĐ/CNVP.ĐKĐĐ 2022 của Chi nhánh văn phòng đăng kí đất đai huyện L đo vẽ ngày 08/6/2022, tháo dở di dời mái che, phần tường rào bê tông cốt thép bao quanh nhà của ông T2 cao khoảng 01m dài khoảng 16m.
Thống nhất theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, Biên bản định giá và sơ đồ đo đạc tranh chấp số 53/SĐ.ĐĐ/CNVP.ĐKĐĐ 2022 của Chi nhánh văn phòng đăng kí đất đai huyện L đo vẽ cùng ngày 11 tháng 05 năm 2022 và ngày 08/6/2022.
* Bị đơn bà Võ Thị T1, người đại diện hợp pháp anh Nguyễn Văn H trình bày:
Năm 2002 bà Võ Thị T1 thừa kế thửa 1090, tờ bản đồ 01 từ bà Nguyễn Thị N2, bà Võ Thị T1 được Ủy ban nhân dân huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2002; Năm 2014 bà Võ Thị T1 đăng ký biến động cấp đổi sang bản đồ địa chính chính quy thành 3 thửa, thửa 04, 15 và 16 cùng tờ bản đồ số 46, thửa 04 do bà T tranh chấp ranh đất nên không cấp đổi được, Bản chính Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất Ủy ban nhân dân huyện L thu hồi lưu giữ; Thửa đất số 15,16 cấp đổi năm 2014 đến năm 2016 bà T1 tặng cho thửa 15, 16 cho ông Nguyễn Văn H đứng tên quyền sử dụng đất, tất cả bản chính giấy chứng nhận không có cầm cố thế chấp, ông H đang giữ.
Võ Thị T1 xác định phần đất của tôi từ mốc M19 đến M20, M21, M22, M23, M14, M13, M12, M11, M10, M9, M8, M7, M6, M5, M4, M3, M2, M1, M18 trở về mốc M19 theo Sơ đồ đo đạc tranh chấp số 53/SĐ.ĐĐ/CNVP.ĐKĐĐ 2022 của Chi nhánh văn phòng đăng kí đất đai huyện L đo vẽ ngày 08/6/2022.
Võ Thị T1 xác định ranh đất của bà T1 với đất bà T từ mốc M19 đến M20, M21, M22, M23, M14, M13 theo sơ đồ đo đạc tranh chấp số 53/SĐ.ĐĐ/CNVP.ĐKĐĐ 2022 của Chi nhánh văn phòng đăng kí đất đai huyện L đo vẽ ngày 08/6/2022.
Bà Võ Thị T1 không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn bà T vì gia đình bà Võ Thị T1 sử dụng ổn định ranh đất từ năm 2002 đến nay năm 2012 khi ông T2 xây dựng nhà kiên cố cũng đã xác định ranh, phân đất của bà T thiếu là do Ủy ban nhân dân huyện T mở rộng Tỉnh lộ 851, đồng thời diện tích bà T sử dụng thực tế hiện nay dư so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thống nhất theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, Biên bản định giá và sơ đồ đo đạc tranh chấp số 53/SĐ.ĐĐ/CNVP.ĐKĐĐ 2022 của Chi nhánh văn phòng đăng kí đất đai huyện L đo vẽ cùng ngày 11 tháng 05 năm 2022 và ngày 08/6/2022.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Châu T2 trình bày:
Ông T2 là em của bà T. Năm 2002 Nguyễn Châu T2 cất căn nhà gỗ, năm 2012 địa chính, Ủy ban nhân dân huyện xác định ranh đất ông T2 xây dựng căn nhà kiên cố như hiện nay tại thửa 104, diện tích 53,2m2 tờ bản đồ số 35 đất thổ, phần đất này giữa bà T với ông T2 không tranh chấp gì trong vụ án này. Phần đất của bà T với đất của bà Võ Thị T1 được xác định từ năm 2012 khi ông T2 xây dựng căn nhà tường kiên cố, bà T1 xây dựng khung bê tông bao bọc phần vách nhà của ông T2; Phía hộ bà T, hộ ông T2 sử dụng phần đất từ vách nhà của ông T2 về phần đất của bà T, từ vách nhà ông T2 trở qua đất của bà Võ Thị T1 thì hộ bà Võ Thị T1 sử dụng, phần đất đang tranh chấp hộ bà T1 trực tiếp sử dụng.
Thống nhất theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, Biên bản định giá và sơ đồ đo đạc tranh chấp số 53/SĐ.ĐĐ/CNVP.ĐKĐĐ 2022 của Chi nhánh văn phòng đăng kí đất đai huyện L đo vẽ cùng ngày 11 tháng 5 năm 2022 và ngày 08/6/2022.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn H, Nguyễn Thị C cùng trình bày:
Anh H, chị C là con ruột của bà Võ Thị T1 thống nhất như bà T1 trình bày trên, không trình bày yêu cầu gì thêm.
Thống nhất theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, Biên bản định giá và sơ đồ đo đạc tranh chấp số 53/SĐ.ĐĐ/CNVP.ĐKĐĐ 2022 của Chi nhánh văn phòng đăng kí đất đai huyện L đo vẽ cùng ngày 11 tháng 05 năm 2022 và ngày 08/6/2022.
* Ủy ban nhân dân huyện L có Văn bản số 360/UBND-TNMT ngày 27/1212021 trình bày như sau: ...“Diện tích cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp lần đầu năm 1999 thửa 1650 tờ bản đồ địa chính số 1 diện tích 217m2 nhưng khi cấp đổi tách thửa năm 2012 thành thửa 104 (diện tích 53,2m2) và thửa 105 (diện tích 112,4m2) tờ bản đồ số 35 nhưng diện tích chênh lệch giảm so với cấp giấy lần đầu nguyên nhân là do thời điểm năm 2002 Ủy ban nhân dân huyện L có bồi thường cho bà Nguyễn Thị Mỹ T diện tích 40m2 đất ở tại đô thị thuộc thửa 1650 tờ bản đồ số 1 để nâng cấp Tỉnh lộ 851 theo biên bản trả tiền đền bù giải phóng mặt bằng công trình: Tuyến ĐT KM0+015 ngày 25/10/2002, bà Nguyễn Thị Mỹ T đã nhận tiền đền bù với số tiền 4.320.000 đồng nhưng bà Nguyễn Thị Mỹ T chưa nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên chưa thu hồi chỉnh lý biến động trên giấy chứng nhận của bà Nguyễn Thị Mỹ T...”.
Tại quyết định bản án dân sự sơ thẩm số: 65/2022/DS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện V, đã tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Thị Mỹ T về việc tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất với hộ bà Võ Thị T1.
Hộ bà Võ Thị T1 được sử dụng phần đất tranh chấp diện tích 31,9m2 theo đo đạc thực tế từ mốc M18, đến M17, M16, M15, M14, M23, M22, M21, M19, M18 theo sơ đồ đo đạc tranh chấp số 53/SĐ.ĐĐ/CNVP.ĐKĐĐ 2022 của Chi nhánh văn phòng đăng kí đất đai huyện L đo vẽ ngày 08/6/2022, đất tọa lạc tại thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ.
Ranh giới quyền sử dụng đất giữa các thửa đất số 104, 105 cùng tờ bản đồ số 35 của bà Nguyễn Thị Mỹ T với thửa đất số 1090 (thửa đất số 4), tờ bản đồ số 1 (tờ bản đồ số 46), của hộ bà Võ Thị T1 được xác định từ mốc M19 đến mốc M20, M21, M22, M23, M14. Ranh giới quyền sử dụng đất được xác định theo chiều thẳng đứng từ không gian đến lòng đất.
Vị trí, hiện trạng, tứ cận, số đo của thửa đất số 104,105 cùng tờ bản đồ số 35 của bà Nguyễn Thị Mỹ T với thửa đất số 1090 (thửa đất số 4), tờ bản đồ số 1 (tờ bản đồ số 46), của hộ bà Võ Thị T1, được thể hiện theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, Biên bản định giá và sơ đồ đo đạc tranh chấp số 53/SĐ.ĐĐ/CNVP.ĐKĐĐ 2022 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện L đo vẽ cùng ngày 11 tháng 5 năm 2022 và ngày 08/6/2022.
Khi bản án có hiệu lực pháp luật các đương sự phải có trách nhiệm đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quản lý đất đai để kê khai, đăng ký, điều chỉnh cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 1090 (thửa đất số 4), tờ bản đồ số 1 (tờ bản đồ số 46), của hộ bà Võ Thị T1, đất tọa lạc tại thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ theo quy định pháp luật.
2. Về án phí và tạm ứng án phí và Lệ phí xem xét thẩm định tại chổ và định giá tài sản:
Bà Nguyễn Thị Mỹ T phải nộp 5.104.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng đã nộp là 4.653.000 đồng vào ngày 25/02/2020 theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0000070 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Đ. Bà Nguyễn Thị Mỹ T còn phải nộp thêm 451.000 đồng (Bốn trăm năm mươi mốt nghìn đồng).
Bà Nguyễn Thị Mỹ T phải chịu tiền lệ phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 10.204.000 đồng, bà Nguyễn Thị Mỹ T đã nộp và chi xong.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, thời hạn, quyền kháng cáo và quyền, nghĩa vụ, thời hiệu thi hành án của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13 tháng 9 năm 2022, bà Nguyễn Thị Mỹ T là nguyên đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm số: 65/2022/DS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện V. Bà Nguyễn Thị Mỹ T yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết hủy bản án sơ thẩm số: 65/2022/DS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đ.
Ngày 14 tháng 9 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện V kháng nghị một phần đối với bản án dân sự sơ thẩm số: 65/2022/DS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đ. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm theo hướng sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Thị Mỹ T; xác định ranh đất giữa bà Nguyễn Thị Mỹ T với bà Võ Thị T1 từ mốc M19 đến M20, kéo xuống vị trí điểm M16 trừ 0,04m về M15 theo sơ đồ đo đạc tranh chấp số 35/2022 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện L đo vẽ ngày 08/6/2022.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh, phát biểu việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự tham gia tố tụng chấp hành tốt quy định của pháp luật và đề xuất hướng giải quyết là chấp nhận một phần kháng cáo của bà T và chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, sửa bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, được kiểm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà T xác định kháng cáo không yêu cầu hủy bản án sơ thẩm. Bà T yêu cầu xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa đất của bà T với đất của bà T1 là đoạn thẳng nối từ các mốc M19-M20-M21- điểm mốc cách mốc M16 là 0,04m-M15-M14. Trên cơ sở sơ đồ đo đạc ngày 08/6/2022, Tòa án đề nghị Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L bổ sung thêm mốc M27, M28. Theo sơ đồ đo đạc ngày 13/4/2023, thì mốc M27 cách mốc M16 là 0,04m.
Như vậy, bà T thống nhất đoạn ranh phía trước xác định tại vị trí mốc M19-M20-M21.
[2] Xét kháng cáo của bà T yêu cầu xác định đoạn ranh từ các mốc M21-M27-M15-M14. Bà T1 không đồng ý.
[3] Xét thấy, về nguồn gốc đất của bà T là do cụ Nguyễn Thị N2 chuyển nhượng cho bà T vào năm 1993 và năm 1999, diện tích 217m2. Nguồn gốc đất của bà T1 cũng là đất của cụ N2 chết để lại cho bà Tl. Khi bà T chuyển nhượng đất của cụ N2 có đo đạc thực tế, theo sơ đồ đo đạc ngày 26/6/1999 thì phần đất chuyển nhượng ngang trước giáp lộ là 10,8m, ngang sau là 2,8m, dài 32m và bà T được cấp giấy CNỌSD đất ngày 21/7/1999, diện tích 217m2, thửa 1650, tờ bản đồ số 1. Năm 2002, Nhà nước thu hồi của bà T 40m2, để mở rộng tỉnh lộ 851, diện tích đất bà T còn lại 177m2.
Năm 2012, thửa 1650 tách thành 02 thửa, thửa 105, diện tích 112,4m2 và thửa 104, diện tích 53,2m2, tổng diện tích 165,6m2 và bà T được cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[4] Theo công văn số 360/UBND-TNMT ngày 27/12/2021 của Ủy ban nhân dân huyện L xác định:...Thửa 104, 105, tờ bản đồ địa chính số 35 không có biên bản xác định ranh giới theo hiện trạng sử dụng đất và sơ đồ kỹ thuật...
Do vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà T năm 2012, không đảm bảo chính xác.
[5] Trong quá trình sử dụng đất, thì giữa bà T và bà T1 có xảy ra tranh chấp vào năm 2005, được Ủy ban nhân dân thị trấn L tiến hành đo đạc ngày 09/8/2005. Theo biên bản đo đạc ngày 09/8/2005 thì hai bên thống nhất, phần đất của bà T chiều ngang mặt trước 9,28m, chiều ngang sau 2,8m, chiều dài phía sau từ gốc nhà ông T2 đến trụ sắt cuối đất là 13,6m. Tại phiên tòa phúc thẩm, anh H thống nhất xác định ranh đất theo biên bản xác định mốc ngày 09/8/2005.
Như vậy, năm 2005 bà T và bà T1 thống nhất xác định lại ranh đất.
[6] Đồng thời, theo biên bản ngày 09/8/2005 thì từ gốc nhà của ông T2 đến cuối đất của bà T là đường thẳng. Tuy nhiên, theo sơ đồ đo đạc ngày 08/6/2022, thì từ gốc nhà ông T2 mốc M20 đến cuối đất của bà T mốc M23 là 12,66m (cũng không phải là đường thẳng) và chiều ngang sau 1,49m đều thiếu so với biên bản ngày 09/8/2005.
[7] Theo sơ đồ đo đạc ngày 13/4/2023, thì đoạn ranh chiều dài từ mốc M20 (gốc nhà ông T2) đến mốc M27 là 13,27m thiếu 0,33m so với biên bản ngày 09/8/2005.
[8] Vì thế, việc bà T kháng cáo yêu cầu xác định chiều dài từ mốc M21 đến mốc M27 và chiều ngang sau là 2,8m là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bà T.
[9] Tại phiên tòa phúc thẩm, anh H cũng không có yêu cầu bà T bồi thường chi phí xây dựng hàng rào, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[10] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện V là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[11] Xét, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ là chấp nhận một phần kháng cáo của bà T, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện V là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận, sửa bản án sơ thẩm.
[12] Từ những cơ sở trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bà T. Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện V.
Các phần còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo kháng nghị.
Do kháng cáo của bà T được chấp nhận, nên bà T không phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 175, Bộ Luật Dân sự; Điều 166 Luật Đất đai; khoản 9 Điều 26; khoản 2, Điều 148; khoản 2, Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị Mỹ T.
Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện V.
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 65/2022/DS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện V.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ T.
2. Xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa đất của bà Nguyễn Thị Mỹ T thửa 104, 105 cùng tờ bản đồ số 35 với đất của bà Võ Thị T1 thửa đất số 1090 (thửa đất số 4) tờ bản đồ số 1 (tờ bản đồ số 46), đất tọa lạc thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ là đường thẳng nối từ mốc M19-M20-M21-M28-M27-M15-M14.
Các bên đương sự có nghĩa vụ tôn trọng di dời các tài sản, công trình và vật kiến trúc khác của mình (nếu có) lấn chiếm theo chiều thẳng đứng từ không gian xuống lòng đất theo ranh đất đã được xác định.
Các đương sự được đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh lại quyền sử dụng đất và đăng ký quyền sử dụng theo quy định của pháp luật.
Kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 11/5/2022, sơ đô đo đạc ngày 08/6/2022 và sơ đồ đo đạc ngày 13/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L.
3. Về án phí:
3.1 Bà Nguyễn Thị Mỹ T phải nộp 3.712.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng đã nộp là 4.653.000 đồng vào ngày 25/02/2020 theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0000070 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Đ. Bà Nguyễn Thị Mỹ T được nhận lại 941.000 đồng.
3.2 Bà T1 phải chịu 1.392.000 đồng án phí sơ thẩm.
3.3 Bà T không phải chịu tiền án phí phúc thẩm. Bà T được nhận lại số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0010526 ngày 15/9/2022, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V.
4. Về chi phí xem xét thẩm định tại chổ và định giá tài sản:
Tổng cộng là 10.204.000 đồng, 4.1 Bà Nguyễn Thị Mỹ T phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chổ và định giá tài sản là 7.421.000 đồng 4.2 Bà Võ Thị T1 phải chịu 2.783.000 đồng chi phí xem xét thẩm định và định giá.
Do bà T đã nộp tạm ứng và đã chi xong, nên bà T1 nộp 2.783.000 đồng hoàn trả cho bà T.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp dân sự ranh giới quyền sử dụng đất số 207/2023/DS-PT
Số hiệu: | 207/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về