TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 277/2022/DS-PT NGÀY 04/07/2022 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong các ngày 27 tháng 5, ngày 27 tháng 6 và ngày 04 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 42/2022/TLPT-DS ngày 16 tháng 02 năm 2022 về “Tranh chấp dân sự về quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 43/2021/DS-ST ngày 08 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện C bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 116/2022/QĐ- PT ngày 31 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Lê Văn M, sinh năm 1977.
Địa chỉ cư trú: Tổ 10, ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của anh M: Ông Lê Văn R, sinh năm 1961; Địa chỉ cư trú: Tổ 18, ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Phi L, sinh năm 1947 (chết ngày 28/5/2019). Địa chỉ cư trú: Tổ 10, ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị Phi L:
2.1. Anh Trần Cao P, sinh năm 1973;
2.2. Anh Trần Cao V, sinh năm 1976;
Cùng địa chỉ cư trú: Số nhà 4A, Thương xá N, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.
2.3. Anh Trần Cao S, sinh năm 1975;
2.4. Anh Trần Cao L, sinh năm 1979;
2.5. Chị Trần Thị T, sinh năm 1984;
2.6. Anh Trần Cao C, sinh năm 1985;
Cùng địa chỉ cư trú: Tổ 10, ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
2.7. Anh Trần Cao H, sinh năm 1981.
Địa chỉ cư trú: Số nhà 707, đường B, Phường 10, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Người kháng cáo: Anh Lê Văn M, là nguyên đơn.
(Ông R, anh S và anh L có mặt; Các đương sự khác vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn anh Lê Văn M ủy quyền cho ông Lê Văn R trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp của ông T (cảnh sát chế độ cũ) cho ông Lê K Ti thuê, khoảng năm 1973 ông Ti chia lại cho cụ Lê Văn C (ông nội của anh M) và bà Nguyễn Thị Đ mỗi người một phần đất để canh tác, không có đo đạc xác định diện tích cụ thể. Từ đó, cả 03 người hùn tiền trả cho ông T, đặc điểm là đất bãi bồi, sử dụng để trồng ấu. Vị trí đất của mỗi người sử dụng tính từ mé Sông Tiền trở vào cụ thể: ông C sử dụng đất phía giáp Sông Tiền, rồi đến đất ôngTiở giữa, phần đất phía sau cùng bà Đ và ông C mỗi người một bên.
Sau năm 1975, ông C, bà Đ, ôngTitiếp tục sử dụng theo hiện trạng đất của mỗi người. Khoảng năm 1980, ông Tiếng, bà Đ bán phần đất đang sử dụng cho bà Nguyễn Thị Phi L. Cụ C vẫn sử dụng toàn bộ diện tích đất của mình. Năm 1986 cụ C chết thì ông Lê Văn Tám (cha của anh M) và anh M ở chung nhà cùng sử dụng. Năm 2011, ông Tám chết anh M tiếp tục sử dụng cho đến năm 2012. Toàn bộ diện tích đất của cụ C để lại hiện tại do anh Lượm, anh M, em gái anh M (cùng là cháu nội của cụ C) mỗi người sử dụng một phần. Anh Lượm đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất anh M sử dụng chưa đăng ký kê khai để xin được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trước năm 1980 bà L và ông Đ có tranh chấp đòi lại đất (diện tích đất tranh chấp hiện nay) được Ủy ban nhân dân xã A giải quyết nhưng phía ông Đ, bà L không có chứng cứ.
Năm 2013 anh M thuê Kobe lên liếp đất để sử dụng bà Nguyễn Thị Phi L tranh chấp cho rằng đất của bà L. Do đó, anh M không sử dụng đất từ 2013 đến nay.
Ông Lê Văn R người đại diện theo ủy quyền của anh Lê Văn M yêu cầu những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà Nguyễn Thị Phi L trả lại cho anh M diện tích đất đo đạc thực tế là 1.689m2 gồm các mốc 1- 2- B- C- D- F- A-1 thể hiện trên Sơ đồ trích đo tranh chấp quyền sử dụng đất ngày 10/6/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C để anh M được quyền sử dụng.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Phi L có người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng là anh Trần Cao S, Trần Cao L trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa trình bày:
Diện tích đất anh M tranh chấp là một phần của thửa 98, tờ bản đồ 8 do bà L đang quản lý, sử dụng. Nguồn gốc đất do vợ chồng bà L và ông Trần Thành Đ mua của ông Nguyễn Văn C (Năm C, chồng bà Nguyễn Thị Đ) năm 1975 và của ông Lê Khắc Ti năm 1977, loại đất cồn trồng ấu, nhưng không làm giấy tờ.
Năm 1976 bà L, ông Đ có cho cụ Lê Văn C (ông nội anh M) mượn phần đất diện tích khoảng hơn 1.000m2 để trồng ấu thời hạn 01 năm, sau đó cụ C không trả mà xin tiếp tục sử dụng 01 năm nữa. Việc cho mượn không có làm giấy tờ. Quá trình sử dụng, cụ C có hành vi lấn chiếm đất nên bà L yêu cầu cụ C trả đất nhưng không trả. Do đó, năm 1986 bà L, ông Đ có nhờ Ban hòa giải ở ấp, Ban Tư pháp của xã hòa giải nhưng không thành. Sau khi cụ C chết, con cụ C là ông Lê Văn T tiếp tục có hành vi lấn chiếm đất. Năm 1987, bà L tiếp tục khiếu nại tại Uỷ ban xã A. Khi hòa giải ông T đồng ý trả đất cho bà L, nhưng sau đó ông T gây cản trở không cho bà L sử dụng đất. Trong năm 1987 bà L đã lấy lại đất nhưng để trống vì là đất ao. Đến năm 2002, gia đình bà L nuôi cá tra, khi nạo vét ao đã thổi bùn và chất thải cá từ ao cá tra vào phần đất tranh chấp nâng cao dần bề mặt của đất, phần còn lại của thửa 98 bà L cất nhà kiên cố và trồng các loại cây ăn trái. Bà L kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho toàn bộ thửa đất (trong đó có diện tích đất tranh chấp) nhưng phía anh M tranh chấp, nên đến nay vẫn chưa được cấp quyền sử dụng đất. Hiện nay trên diện tích đất tranh chấp gia đình bà L đã sử dụng trồng cỏ để nuôi dê một phần và một phần do làm đường đã lấy đất đắp đường nên thành ao trũng dùng để chất chà nuôi cá.
Trước đó, ngày 17/3/2013, anh M tự ý thuê Kobe vào múc bờ lên liếp phần đất đang tranh chấp hiện nay, nhưng đất do bà L quản lý, sử dụng nên phát sinh tranh chấp đến nay. Trong quá trình sử dụng đất, bà L có đóng thuế nông nghiệp cho Nhà nước đến khi miễn thuế. Đồng thời, sổ mục kê ruộng đất do Nhà nước quản lý đã thể hiện tên ông Trần Thành Đ (chồng bà L) là người kê khai đối với phần đất tranh chấp này.
Diện tích đất anh M tranh chấp 1.689m2 gồm các mốc 1- 2- B- C- D- F- A-1 thể hiện trên Sơ đồ trích đo tranh chấp quyền sử dụng đất ngày 10/6/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C thuộc 01 phần thửa 98, tờ bản đồ số 8 (bản đồ 299 là 01 phần thửa 140, tồ bản đồ số 1), tọa tạc tại ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp thuộc quyền sử dụng của gia đình bà L. Do đó, những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà L không đồng ý trả đất theo yêu cầu của anh Lê Văn M. Đồng thời, yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất diện tích đất 1.689m2 cho những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà L được tiếp tục quản lý, sử dụng và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Anh Trần Cao P, Trần Cao V, Trần Cao H, chị Trần Thị T, Trần Cao C có bản tự khai thống nhất lời trình bày của anh S và anh L.
Tại quyết định bản án dân sự sơ thẩm số: 43/2021/DS-ST ngày 08 tháng 12 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện C: Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn anh Lê Văn M.
2. Anh Trần Cao P, Trần Cao V, Trần Cao H, Trần Cao S, Trần Cao L, chị Trần Thị T, anh Trần Cao C được quyền sử dụng diện tích đất 1.689m 2 gồm các mốc 1- 2- B- C- D- F- A-1 thể hiện trên Sơ đồ trích đo tranh chấp quyền sử dụng đất ngày 10/6/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C; đất thuộc một phần thửa số 98, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
Anh Trần Cao P, Trần Cao V, Trần Cao H, Trần Cao S, Trần Cao L, chị Trần Thị T, anh Trần Cao C được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất theo quy định của pháp luật.
(có Sơ đồ trích đo tranh chấp quyền sử dụng đất ngày 10/6/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C đính kèm).
3. Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí khác:
Anh Lê Văn M được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm.
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản và đo đạc: Anh Lê Văn M nộp 4.349.000 đồng (bốn triệu ba trăm bốn mươi chín ngàn đồng) đã nộp và chi xong.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên thời hạn, quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ, thời hiệu thi hành án của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 17/12/2021, anh Lê Văn M kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết hủy toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm số: 43/2021/DS-ST ngày 08 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện C.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ông Lê Văn R là người đại diện của nguyên đơn anh Lê Văn M vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.
Anh Trần Cao S, anh Trần Cao L là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị Phi L thống nhất theo bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về việc thụ lý vụ án, về thời hạn giải quyết vụ án. Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng Dân sự giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số:
43/2021/DS-ST ngày 08 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Đồng Tháp, không chấp nhận toàn bộ nội dung đơn kháng cáo của anh M.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Xét đơn kháng cáo của anh Lê Văn M nộp trong thời hạn luật định. Căn cứ Điều 273 của Bộ luật tố tụng Dân sự, xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng chỉ có ông R, anh S và anh L có mặt; còn lại những kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bị đơn vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo luật định.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của anh Lê Văn M yêu cầu hủy toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm số: 43/2021/DS-ST ngày 08 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện C.
Hội đồng xét xử xét thấy:
Nguồn gốc đất tranh chấp của ông T (cảnh sát chế độ cũ) cho ông Lê KhắcTithuê, khoảng năm 1973 ôngTichia lại cho ông Lê Văn C (cha ông Lê Văn Tám, ông nội anh M) và bà Nguyễn Thị Đ không có đo đạc để trồng ấu.
Phía nguyên đơn cung cấp “xác nhận” của bà Trần Thị Ái, bà Nguyễn Thị Đ, ông Nguyễn Chí Phương cho rằng ông C thuê đất canh tác từ năm 1973, sau khi đất nước thống nhất năm 1975 Phòng thủy sản huyện C cấp đất cho ông C (ông nội anh M), để chứng minh nguồn gốc đất của anh M. Tuy nhiên, xác nhận của bà Ái, ông Phương trình bày chung chung, không nêu rõ diện tích, vị trí đất, anh M không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ để chứng minh lời trình bày của mình. Ngoài ra, anh em của anh M có diện tích đất ở vị trí khác và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, chưa đủ cơ sở để chứng minh nguồn gốc diện tích đất 1.689m2 là của anh M.
Ông Châu Văn Lớn, ông Đặng Văn Bé, ông Nguyễn Văn Lực Em là người làm chứng xác nhận, gia đình anh M sử dụng phần đất một thời gian để trồng ấu, nhưng không xác định được thời gian nào. Anh M không có chứng cứ chứng minh sử dụng đất liên tục đến năm 2012.
Anh M trình bày bà L, ông Đ tranh chấp vào thời điểm trước năm 1980. Phía bà L trình bày năm 1986, 1987 tranh chấp với gia đình anh M ở ấp và Ủy nhân dân ban xã; ấp và Ủy ban xã có tổ chức hòa giải và gia đình anh M đồng ý trả lại đất, nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh.
Tuy nhiên, qua trình bày của anh M và người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà L, diện tích tranh chấp có một khoảng thời gian gia đình anh M canh tác, sau đó tranh chấp gia đình bà L khiếu nại lấy lại đất từ năm 1987 cho đến nay.
Ông Lê Khắc Ti (người chia đất thuê cho cụ C năm 1973), ông Ti trình bày vào ngày 13/7/2020, xác định bà L, ông Đ mua đất của bà Đặng trước, sau đó tiếp tục mua đất của bà Đ và ông Ti để liền ranh, vị trí đất tranh chấp hiện nay được thể hiện trên “Sơ đồ đo đạc” có một phần của bà Đặng, bà Đ và một phần của ôngTisử dụng trước đây đã bán cho ông Đ; còn đất của gia đình anh M ở vị trí khác.
Tại Công văn số: 297/UBND-NC ngày 22/01/2021 của Ủy ban nhân dân huyện C cung cấp: Diện tích đất tranh chấp thuộc một phần thửa 98, tờ bản đồ số 8, tọa lạc ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp là đất bãi bồi Nhà nước chưa lập hồ sơ quản lý, nhưng chưa ai kê khai và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Qua đối chiếu bản đồ giải thửa sử dụng đất (bản đồ 299) thì vị trí phần đất tranh chấp thuộc một phần thửa số 140, tờ bản đồ số 01, diện tích 4.000m2, mục đích sử dụng: đất Ao, ghi tên ông Trần Thành Đ trong sổ mục kê ruộng đất (chưa đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Như vậy, gia đình bà L có cơ sở chứng minh nguồn gốc đất là của gia đình bà L và đã kê khai.
Văn bản của Ủy ban nhân dân huyện C cung cấp thông tin phần đất tranh chấp là đất bãi bồi, chưa lập hồ sơ quản lý. Tuy nhiên, nhận thấy đất tranh chấp diện tích 1.689m2 có nguồn gốc là đất bãi bồi, nhưng được gia đình anh M và gia đình bà L canh tác đã ghi nhận trong sổ mục kê, phần đất của gia đình bà L chưa được cấp giấy chứng nhận do có tranh chấp. Đồng thời, Ủy ban nhân dân Huyện không có thông tin đất tranh chấp thuộc diện đất công Nhà nước quản lý. Do đó, đây là tranh chấp quyền sử dụng đất giữa anh M và bà L; đối tượng tranh chấp không phải là đất bãi bồi thuộc đất công do Nhà nước quản lý. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của anh M yêu cầu những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà L trả lại diện tích 1.689m2 là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện của anh M không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Do đó, anh M kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm là không có căn cứ nên không chấp nhận.
[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh M là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 43/2021/DS-ST ngày 08 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện C.
[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp, không chấp nhận kháng cáo của anh M, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm là có căn cứ nên chấp nhận.
[5] Các phần còn lại của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Anh M được miễn án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 và khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Lê Văn M.
2. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 43/2021/DS-ST ngày 08 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện C.
3. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn anh Lê Văn M.
4. Anh Trần Cao P, Trần Cao V, Trần Cao H, Trần Cao S, Trần Cao L, chị Trần Thị T, anh Trần Cao C được quyền sử dụng diện tích đất 1.689m2 gồm các mốc 1- 2- B- C- D- F- A-1 thể hiện trên Sơ đồ trích đo tranh chấp quyền sử dụng đất ngày 10/6/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C; đất thuộc một phần thửa số 98, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
Anh Trần Cao P, Trần Cao V, Trần Cao H, Trần Cao S, Trần Cao L, chị Trần Thị T, anh Trần Cao C được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất theo quy định của pháp luật.
(có Sơ đồ trích đo tranh chấp quyền sử dụng đất ngày 10/6/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C đính kèm).
5. Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí khác:
Anh Lê Văn M được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm.
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản và đo đạc: Anh Lê Văn M nộp 4.349.000 đồng (bốn triệu ba trăm bốn mươi chín nghìn đồng) đã nộp và chi xong.
6. Về án phí dân sự phúc thẩm: Anh Lê Văn M được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp dân sự quyền sử dụng đất số 277/2022/DS-PT
Số hiệu: | 277/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 04/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về