Bản án về tranh chấp dân sự quyền sử dụng đất số 260/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 260/2022/DS-PT NGÀY 23/06/2022 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 23 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 61/2022/TLPT-DS ngày 28 tháng 02 năm 2022 về “Tranh chấp dân sự về quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 90/2021/DS-ST ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 147/2022/QĐ- PT ngày 27 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Thanh T, sinh năm 1986.

Địa chỉ cư trú: Số 502, khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

2. Bị đơn:

2.1. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1956;

Địa chỉ cư trú: Số 641, khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

2.2. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1968.

HKTT: Số 488B, khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Địa chỉ cư trú: Tuyến đường 2B, khóm T A, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn T: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1956; Địa chỉ cư trú: Khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Văn T: Ông Phạm Hoàng Đ là Luật sư, thành viên Công ty Luật hợp danh A Luật sư - Chi nhánh Đồng Tháp.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1958;

3.2. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960;

3.3. Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1963;

Cùng địa chỉ cư trú: Khóm 5, thị trấn T, huyện T N, tỉnh Đồng Tháp.

3.4. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964;

Địa chỉ cư trú: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1956; Địa chỉ cư trú: Khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3.5. Ủy ban nhân dân huyện T;

Địa chỉ: Quốc lộ 30, khóm T B, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Người đại diện theo pháp luật: Ông Huỳnh Văn N, chức vụ: Chủ tịch. Người đại diện theo ủy quyền: Ông M Văn Đ, chức vụ: Phó Chủ tịch.

3.6. Anh Ung Văn T, sinh năm 1986;

HKTT: Ấp 3, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Địa chỉ cư trú: Số 641, khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3.7. Chị Phan Thị Bé T, sinh năm 1980;

3.8. Cháu Ung Ngọc P, sinh năm 2013;

3.9. Cháu Ung Ngọc T, sinh năm 2016;

3.10. Cháu Ung Minh C, sinh năm 2019;

Người đại diện theo pháp luật của cháu Ung Ngọc P, cháu Ung Ngọc T, cháu Ung Minh C: Chị Phan Thị Bé T, sinh năm 1980 (là mẹ ruột).

Cùng địa chỉ cư trú: Số 641, khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của anh Ung Văn T, chị Phan Thị Bé T:

Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1968; Địa chỉ cư trú: Khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3.11. Ông Lê Thanh H, sinh năm 1951;

3.12. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1951;

3.13. Chị Lê Thanh T, sinh năm 1981;

HKTT: Số 502, khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3.14. Chị Lê Thị B, sinh năm 1975;

Địa chỉ cư trú: Số 502, khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3.15. Anh Lê Thanh T, sinh năm 1975;

3.16. Chị Lê Thị Ngọc H, sinh năm 1981;

3.17. Anh Lê T, sinh năm 2004;

Người đại diện theo pháp luật của anh Lê T: Anh Lê Thanh T, sinh năm 1978 (là cha ruột).

Cùng địa chỉ cư trú: Số 894, ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang.

3.18. Chị Lê Thị Bé H, sinh năm 1987;

Địa chỉ cư trú: Số 907, đường N, phường H, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của chị Lê Thị B, anh Lê Thanh T, chị Lê Thị Ngọc H, chị Lê Thị B: Anh Lê Thanh T, sinh năm 1986; Địa chỉ cư trú: Số 502, khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3.19. Chị Nguyễn Thị Ngọc M, sinh năm 1985;

3.20. Anh Lê Thanh Đ, sinh năm 2007;

Người đại diện theo pháp luật của anh Lê Thanh Đ: Anh Lê Thanh T, sinh năm 1986 (là cha ruột).

Cùng địa chỉ cư trú: Số 502, khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

4. Người K cáo: Bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Văn T, là bị đơn.

(Anh T, bà S, ông T, chị M và Luật sư Đ có mặt; Ủy ban nhân dân huyện T có đơn xin vắng mặt; Các đương sự khác vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn anh Lê Thanh T trình bày:

Nguồn gốc phần đất tranh chấp của cụ Lê Văn Ơ và cụ Trần Thị M (ông, bà nội anh T) chết để lại cho ông Lê Thanh H (cha anh T). Năm 1999, Ủy ban nhân dân huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 1259/QSDĐ/A1, thửa đất số 2276, tờ bản đồ số 01, diện tích 263m2, cấp ngày 23/9/1999, do hộ ông Lê Thanh H đứng tên. Đến năm 2009, ông H và bà Nguyễn Thị T (cha, mẹ anh T) lập Hợp đồng tặng cho anh T quyền sử dụng đất nêu trên.

Sau đó, Ủy ban nhân dân huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H1920, thửa số 1040, tờ bản đồ số 01, diện tích 263m2, đất ở đô thị, cấp ngày 31/7/2009, do hộ anh Lê Thanh T đứng tên.

Đến năm 2013, Ủy ban nhân dân huyện T cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận: CH01102, thửa số 52, tờ bản đồ số 39, diện tích 253,7m2, đất ở đô thị, cấp ngày 22/4/2013, do hộ anh Lê Thanh T đứng tên.

Ngày 30/8/2018, ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị S tự ý xây mái che lấn chiếm phần đất của anh T diện tích 10,45m2 (đo đạc thực tế là 10,33m2). Anh T gặp ông T và bà S yêu cầu tháo dỡ vật kiến trúc trên đất trả cho anh T diện tích đất đã lấn chiếm. Anh T đã yêu cầu Ủy ban nhân dân thị trấn T giải quyết nhưng không thành. Hiện nay, bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Văn T, anh Ung Văn T, chị Phan Thị Bé T, Ung Ngọc P, Ung Ngọc T, Ung Minh C cùng quản lý, sử dụng mái che nêu trên.

Anh T thống nhất với Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 26/3/2019 và Biên bản định giá tài sản ngày 26/3/2019 và Sơ đồ đo đạc ngày 01/8/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.

Nay, anh Lê Thanh T yêu cầu giải quyết cụ thể:

- Anh T yêu cầu ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị S, anh Ung Văn T, chị Phan Thị Bé T, cháu Ung Ngọc P, cháu Ung Ngọc T, cháu Ung Minh C di dời mái che kết cấu khung sắt tiền chế, mái tole sóng vuông, xây bó nền, nền lát gạch bông trả cho anh T diện tích 10,33m2, Tộc một phần thửa số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T, trong phạm vi các mốc 1, 2, 3, 4 và mốc 1 theo Sơ đồ đo đạc ngày 01/8/2019 của Chi nhánh Văn Phòng đăng ký đất đai huyện T.

- Anh T không đồng ý theo yêu cầu của ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T về việc công nhận quyền sử dụng đất diện tích 10,33m2, Tộc một phần thửa số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T cho bà S, bà N, bà H, bà B, bà T, ông T.

- Anh T không đồng ý theo yêu cầu của bà S, bà N, bà H, bà B, bà T, ông T về việc yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện T T hồi một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Đ với diện tích 10,33m2, Tộc một phần thửa đất số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T, do hộ anh Lê Thanh T đứng tên.

Bị đơn bà Nguyễn Thị S trình bày:

Nguồn gốc phần đất tranh chấp của cụ Lê Văn Ơn và cụ Trần Thị M (ông, bà ngoại của ông T, bà S) chết để lại cho bà Lê Thị S. Phần đất tranh chấp là phần đất gia đình bà S xây dựng nhà bếp khoảng 60 năm nay.

Bà S thống nhất với Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 26/3/2019 và Biên bản định giá tài sản ngày 26/3/2019 và Sơ đồ đo đạc ngày 01/8/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.

Nay, bà Nguyễn Thị S có ý kiến và yêu cầu cụ thể:

- Bà S không đồng ý theo T bộ yêu cầu khởi kiện của anh Lê Thanh T.

- Bà S yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất diện tích 10,33m2, Tộc một phần thửa số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T cho bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn T và thống nhất giao cho ông Nguyễn Văn T được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Bà S yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện T T hồi một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Đ với diện tích 10,33m2, Tộc một phần thửa đất số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T, do hộ anh Lê Thanh T đứng tên.

Bị đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:

Nguồn gốc phần đất tranh chấp của cụ Lê Văn Ơ và cụ Trần Thị M (ông, bà ngoại của ông T, bà S) chết để lại cho bà Lê Thị S. Phần đất tranh chấp là của bà Lê Thị S (mẹ ông T, chết năm 2000) và ông Nguyễn Văn K (cha ông T, chết năm 2007) được cụ Ơn và cụ M cho khoảng 60 năm nay. Năm 1994, Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Lê Thị S diện tích 20m2, thửa số 2271, tờ bản đồ số 01, loại đất thổ, đất tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Tuy nhiên, trên thực tế bà S và ông K sử dụng nhiều hơn diện tích được cấp giấy nhưng do bà S và ông K không biết chữ nên không khiếu nại. Sau khi bà S và ông K chết thì anh, chị, em của ông T chưa làm thủ tục thừa kế và cũng không khiếu nại về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H cũng như anh T do bận công việc làm ăn.

Phần đất tranh chấp bà S xây dựng nhà bếp khoảng 60 năm nay, đến tháng 5 năm 2009, ông T, bà S tiến hành sửa chữa, thời điểm sửa chữa còn ông H. Trước đây bà S xây dựng nhà gỗ, đến năm 2009 ông T và bà S sửa chữa thành nhà cấp 4.

Ông T thống nhất với Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 26/3/2019 và Biên bản định giá tài sản ngày 26/3/2019 và Sơ đồ đo đạc ngày 01/8/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.

Nay, ông Nguyễn Văn T có ý kiến và yêu cầu cụ thể:

- Ông T không đồng ý theo T bộ yêu cầu khởi kiện của anh Lê Thanh T.

- Ông T yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất diện tích 10,33m2, Tộc một phần thửa số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T cho bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn T và thống nhất giao cho ông Nguyễn Văn T được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Ông T yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện T T hồi một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Đ với diện tích 10,33m2, Tộc một phần thửa đất số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T, do hộ anh Lê Thanh T đứng tên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T ủy quyền cho bà Nguyễn Thị S trình bày:

Bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T yêu cầu giải quyết cụ thể:

- Yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất diện tích 10,33m2, Tộc một phần thửa số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T cho bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn T và thống nhất giao cho ông Nguyễn Văn T được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện T thu hồi một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 10,33m2, thuộc một phần thửa đất số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T, do hộ anh Lê Thanh T đứng tên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Ung Văn T, chị Phan Thị Bé T ủy quyền cho ông Nguyễn Văn T trình bày: Anh T, chị T thống nhất theo lời trình bày của bà S, ông T.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện T trình bày:

Việc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 01102, cấp ngày 22/4/2013 cho hộ anh Lê Thanh T đứng tên theo trình tự thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ bản đồ 299 sang bản đồ địa chính chính quy. Theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ anh T có tiến hành đo đạc thực tế.

Phn đất trong phạm vi các mốc 1, 2, 3, 4 và mốc 1 theo Sơ đồ đo đạc ngày 01/8/2019 của Chi nhánh Văn Phòng đăng ký đất đai huyện T thuộc một phần thửa đất số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ anh Lê Thanh T.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Thanh H, bà Nguyễn Thị T, chị Lê Thanh T không có ý kiến.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Thị B trình bày: Thống nhất về nguồn gốc phần đất tranh chấp và thống nhất việc ông Lê Thanh H, bà Nguyễn Thị T (cha, mẹ chị Ba) tặng cho quyền sử dụng đất cho hộ anh Lê Thanh T và Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ anh Lê Thanh T, chị Ba không có ý kiến và không khiếu nại việc cấp giấy chứng quyền sử dụng đất nêu trên. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ anh T thì những người được quyền sử dụng đất trong hộ anh T gồm: Anh Lê Thanh T, chị Nguyễn Thị Ngọc M và Lê Thanh Đ. Chị Ba đ ề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Thanh T.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Thanh Tú, chị Lê Thị Ngọc H trình bày: Thống nhất về nguồn gốc phần đất tranh chấp và thống nhất việc ông Lê Thanh H, bà Nguyễn Thị T (cha, mẹ anh Tú, chị H) tặng cho quyền sử dụng đất cho hộ anh Lê Thanh T và Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ anh Lê Thanh T, anh Tú, chị H không có ý kiến và không khiếu nại việc cấp giấy chứng quyền sử dụng đất nêu trên. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ anh T thì những người được quyền sử dụng đất trong hộ anh T gồm: Anh Lê Thanh T, chị Nguyễn Thị Ngọc M và Lê Thanh Đ. Anh Tú, chị H đ ề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Thanh T.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Ngọc M trình bày: Thống nhất về nguồn gốc phần đất tranh chấp. Năm 2009, ông Lê Thanh H và bà Nguyễn Thị T (cha, mẹ chồng chị M) tặng cho hộ anh Lê Thanh T. Sau đó, Ủy ban nhân dân huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H1920, thửa số 1040, tờ bản đồ số 01, diện tích 263m2, đất ở đô thị, cấp ngày 31/7/2009, do hộ anh Lê Thanh T và bà Nguyễn Thị Ngọc M đứng tên. Đến năm 2013, được Ủy ban nhân dân huyện T cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận: CH01102, thửa số 52, tờ bản đồ số 39, diện tích 253,7m2, đất ở đô thị, cấp ngày 22/4/2013, do hộ anh Lê Thanh T đứng tên. Chị M đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Thanh T.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Thị B trình bày: Thống nhất về nguồn gốc phần đất tranh chấp và thống nhất việc ông Lê Thanh H, bà Nguyễn Thị T (cha, mẹ chị Hiền) tặng cho quyền sử dụng đất cho hộ anh Lê Thanh T và Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ anh Lê Thanh T, chị Hiền không có ý kiến và không khiếu nại việc cấp giấy chứng quyền sử dụng đất nêu trên. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ anh T thì những người được quyền sử dụng đất trong hộ anh T gồm: Anh Lê Thanh T, chị Nguyễn Thị Ngọc M và Lê Thanh Đ. Chị Hiền đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Thanh T.

Ti quyết định bản án dân sự sơ thẩm số: 90/2021/DS-ST ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện T xét xử:

Tuyên xử:

Chấp nhận T bộ yêu cầu khởi kiện của anh Lê Thanh T; không chấp nhận T bộ yêu cầu phản tố bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Văn T; không chấp nhận T bộ yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T.

Buộc bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Văn T, anh Ung Văn T, Phan Thị Bé T, Ung Ngọc P, Ung Ngọc T, Ung Minh C giao cho hộ anh Lê Thanh T diện tích 10,33m2, trong phạm vi các mốc 1, 2, 3, 4 và mốc 1 theo Sơ đồ đo đạc ngày 01/8/2019, Tộc một phần thửa số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã cấp cho hộ anh Lê Thanh T đứng tên, cấp ngày 22/4/2013, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Buộc bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Văn T, anh Ung Văn T, Phan Thị Bé T, Ung Ngọc P, Ung Ngọc T, Ung Minh C di dời T bộ vật kiến trúc ra khỏi diện tích đất nêu trên để giao cho hộ anh T theo quy định của pháp luật.

(Kèm theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 26/3/2019 và Biên bản định giá tài sản ngày 26/3/2019 và Sơ đồ đo đạc ngày 01/8/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T).

Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Trả cho anh Lê Thanh T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai T tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số:

0004427 ngày 27/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

- Bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Buộc bà Nguyễn Thị B phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 372.000 đồng (Ba trăm bảy mươi hai nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai T tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002020 ngày 02/7/2020 và số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai T tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số:

0002049 ngày 13/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T. Như vậy, bà B được nhận lại số tiền 228.000 đồng (Hai trăm hai mươi tám nghìn đồng).

- Buộc bà Nguyễn Thị T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 372.000 đồng (Ba trăm bảy mươi hai nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai T tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002019 ngày 02/7/2020 và số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số:

0002050 ngày 13/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T. Như vậy, bà T được nhận lại số tiền 228.000 đồng (Hai trăm hai mươi tám nghìn đồng).

- Buộc ông Nguyễn Văn T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 372.000 đồng (Ba trăm bảy mươi hai nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002021 ngày 02/7/2020 và số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002048 ngày 13/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T. Như vậy, ông T được nhận lại số tiền 228.000 đồng (Hai trăm hai mươi tám nghìn đồng).

Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản ngày 26/3/2019 là 500.000 đồng, chi phí Hợp đồng đo đạc là 2.473.000 đồng, tổng cộng là 2.973.000 đồng (Hai triệu chín trăm bảy mươi ba nghìn đồng) do anh Lê Thanh T đã nộp tạm ứng và chi xong. Như vậy, bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn T có trách nhiệm trả lại cho anh T số tiền là 2.973.000 đồng (Hai triệu Cn trăm bảy mươi ba nghìn đồng).

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên thời hạn, quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ, thời hiệu thi hành án của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 13/01/2022, bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Văn T kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết sửa toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số: 90/2021/DS-ST ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T.

Công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 10,33m2, Thuộc một phần thửa số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp cho bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T và thống nhất giao cho ông Nguyễn Văn T đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Thu hồi điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 10,33m2, Thuộc một phần thửa số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp do hộ anh Lê Thanh T đứng tên và cấp lại cho bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T và thống nhất giao cho ông Nguyễn Văn T đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ti phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Văn T vn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn bà S, ông T trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp của cụ Lê Văn Ơ và cụ Trần Thị M để lại cho bà Lê Thị S là mẹ của bà S, ông T, phần đất tranh chấp gắn liền với căn nhà diện tích 70m2 nhưng lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 20m2. Năm 2018 xây dựng lại nhà bếp trên căn nhà cũ, ông Lê Thanh H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có phần đất của bà S, ông H tặng cho quyền sử dụng đất cho anh Lê Thanh T cũng chưa phù hợp, bà S sử dụng đất ổn định liên tục, người làm chứng bà Huỳnh Thị K, bà Lê Thị H, bà Lê Thị Thanh T xác định phần đất tranh chấp là của bị đơn, năm 2009 đã cuốn nền ông H biết không ý kiến. Bà S được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 20m2 chưa phù hợp, do bà S không biết chữ nên không khiếu nại. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu K cáo của bà S, ông T, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T.

Nguyên đơn anh Lê Thanh T thống nhất theo bản án dân sự sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Ngọc M thống nhất theo bản án dân sự sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về việc thụ lý vụ án, về thời hạn giải quyết vụ án. Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng Dân sự không chấp nhận K cáo của bà S, ông T, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 90/2021/DS-ST ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Xét đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Văn T np trong thời hạn luật định. Căn cứ Điều 273 của Bộ luật tố tụng Dân sự, xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng chỉ có anh T, bà S, ông T, chị M và Luật sư Đ có mặt, còn lại các đương sự khác vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo luật định.

[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Văn T yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết sửa T bộ bản án dân sự sơ thẩm:

Công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 10,33m2, thuộc một phần thửa số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp cho bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T và thống nhất giao cho ông Nguyễn Văn T đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Thu hồi điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 10,33m2, thuộc một phần thửa số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp do hộ anh Lê Thanh T đứng tên và cấp lại cho bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T và thống nhất giao cho ông Nguyễn Văn T đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Hi đồng xét xử xét thấy:

Nguồn gốc phần đất tranh chấp của cụ n và cụ M, cụ n và cụ M là cha mẹ của ông H và ông, bà nội anh T để lại cho ông H. Ngày 23/9/1999, ông H được Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 1259/QSDĐ/A1, thửa đất số 2276, tờ bản đồ số 01, diện tích 263m2, đất tại khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp, khi ông H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà Lê Thị S mẹ bà S, ông T không có ý kiến, thửa 2276 đính chính lại thành thửa 1040.

Năm 2009, ông H, bà Anh lập Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 1040, tờ bản đồ số 01, diện tích 263m2 cho anh T và chị M. Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân thị trấn T chứng thực, đảm bảo đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật.

Ngày 31/7/2009, Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H1920, thửa đất thửa số 1040, tờ bản đồ số 01, diện tích 263m2, đất ở đô thị, đất tại khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp cho hộ ông T và bà M.

Ngày 22/4/2013, Ủy ban nhân dân huyện T cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ: CH01102, thửa số 52, tờ bản đồ số 39, diện tích 253,7m 2, đất ở tại đô thị, đất tại khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp cho hộ ông T.

Công văn số: 639/UBND-NC ngày 27/9/2019 của Ủy ban nhân dân huyện T cung cấp thông tin.

Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CH01102 cấp ngày 22/4/2013 cho hộ ông Lê Thanh T thuộc thửa đất số 52 tờ bản đồ số 39, diện tích 253,7m2 đất ở đô thị. Hồ sơ thể hiện khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Lê Thanh T có đo đạc thực tế.

Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CH01102 cấp ngày 22/4/2013 cho hộ ông Lê Thanh T nêu trên theo trình tự cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ bản đồ 299 sang bản đồ địa chính chính quy, Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 1263 QSDĐ/A4 cấp ngày 24/9/1994 cho hộ bà Lê Thị S Tộc thửa đất số 2771 tờ bản đồ số 1 diện tích 20,0m2 đất thổ. Theo sổ mục kê đất đai thể hiện thửa đất số 2771 tờ bản đồ số 1 vẫn còn của hộ bà Lê Thị S đứng tên, chưa cấp đổi mới và chưa hợp vào thửa đất nào khác.

Phần đất tranh chấp trong phạm vi các mốc 1, 2, 3, 4 và 1 có diện tích 10,33m2 theo sơ đồ đo đạc ngày 01/8/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện T thuộc một phần diện tích thửa đất số 52 tờ bản đồ số 39 diện tích 253,7m2 đất ở tại đô thị trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông Lê Thanh T.

Tại biên bản hòa giải ngày 04/10/2018 của Ủy ban nhân dân thị trấn T bà S trình bày, phần đất bà xây dựng nhà bếp thuộc phần đất của ông Lê Văn Ba nhưng không có chứng cứ chứng minh đất của ông Ba.

Bà S, ông T cho rằng, phần đất tranh chấp cụ Ơ và cụ M cho bà S khoảng 60 năm nay và sử dụng ổn định liên tục, nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh. Bà S, ông T cho rằng bà S kê khai đăng ký được Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 23/9/1994, nhưng chưa kê khai đăng ký quyền sử dụng đất đối với phần đất tranh chấp.

Thời điểm đo đạc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ anh T theo sơ đồ chính quy có các hộ lân cận giáp ranh xác định, gia đình bà S, ông T khi đó không tranh chấp hay khiếu nại, Mặt khác, các tài liệu chứng cứ thể hiện tờ khai nộp thuế đất của bà S ngày 09/7/1993, tổng diện tích sử dụng là 20m2 đúng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ bà Lê Thị S ngày 23/9/1994, đồng thời bà S , ông T cho rằng phần đất tranh chấp của cụ Ơn và cụ M cho cho chiều ngang 01m, chiều dài 5,5m, ông Lê Văn B cho chiều ngang 01m, chiều dài 5,5m nhưng không có chứng cứ chứng minh, cũng như chị Lê Thị T H con ông B trình bày lúc đó chị còn nhỏ nghe nói lại có cho không biết bao nhiêu nhưng không có chứng cứ chứng minh.

Tại phiên tòa phúc thẩm bà S, ông T thừa nhận vào năm 2018 sử dụng tường của anh T, bà T nên dựng cột bằng sắt cặp tường gác xà gồ lợp to le sống vuông làm nhà bếp.

Như vậy, bà S, ông T xây dựng trái phép vật kiến trúc trên phần đất anh T. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của anh T là có căn cứ.

Đ với bà S, ông T, bà N, bà H, bà B, bà T yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất Đ với diện tích 10,33m2, thuộc một phần thửa số 52, tờ bản đồ số 39 và thu hồi một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Đ với diện tích 10,33m2, thuộc một phần thửa số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, đất tại khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp do hộ anh T đứng tên. Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của bà S, ông T, bà N, bà H, bà B, bà T là có căn cứ.

Ti phiên tòa phúc thẩm bà S, ông T không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Do đó, kháng cáo của bà S, ông T yêu cầu sửa toàn bộ bản án là không có căn cứ nên không chấp nhận.

[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh T là có căn cứ; không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bà S, ông T; không chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của bà N, bà H, bà B, bà T là có căn cứ, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 90/2021/DS-ST ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện T.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp, không chấp nhận kháng cáo của bà S, ông T, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm là có căn cứ nên chấp nhận.

[5] Xét ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn bà S, ông T là không có căn cứ nên không chấp nhận.

[6] Các phần còn lại của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7] Do kháng cáo của bà S, ông T không được chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Bà S là người cao tuổi được miễn nộp tiền án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 và khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên Xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Văn T.

2. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 90/2021/DS-ST ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện T.

3. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Lê Thanh T; không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Văn T; không chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T.

Buộc bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Văn T, anh Ung Văn T, Phan Thị Bé T, Ung Ngọc P, Ung Ngọc T, Ung Minh C giao cho hộ anh Lê Thanh T diện tích 10,33m2, trong phạm vi các mốc 1, 2, 3, 4 về mốc 1 theo Sơ đồ đo đạc ngày 01/8/2019, thuộc một phần thửa số 52, tờ bản đồ số 39, đất ở đô thị, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã cấp cho hộ anh Lê Thanh T đứng tên, cấp ngày 22/4/2013, tọa lạc tại khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Buộc bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Văn T, anh Ung Văn T, Phan Thị Bé T, Ung Ngọc P, Ung Ngọc T, Ung Minh C di dời toàn bộ vật kiến trúc ra khỏi diện tích đất nêu trên để giao cho hộ anh T theo quy định của pháp luật.

(Kèm theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 26/3/2019 và Sơ đồ đo đạc ngày 01/8/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T).

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Trả cho anh Lê Thanh T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số:

0004427 ngày 27/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

- Bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Bà Nguyễn Thị B phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 372.000 đồng (Ba trăm bảy mươi hai nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002020 ngày 02/7/2020 và số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số:

0002049 ngày 13/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T. Như vậy, bà B được nhận lại số tiền 228.000 đồng (Hai trăm hai mươi tám nghìn đồng).

- Bà Nguyễn Thị T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 372.000 đồng (Ba trăm bảy mươi hai nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002019 ngày 02/7/2020 và số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002050 ngày 13/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T. Như vậy, bà T được nhận lại số tiền 228.000 đồng (Hai trăm hai mươi tám nghìn đồng).

- Ông Nguyễn Văn T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 372.000 đồng (Ba trăm bảy mươi hai nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002021 ngày 02/7/2020 và số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số:

0002048 ngày 13/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T. Như vậy, ông T được nhận lại số tiền 228.000 đồng (Hai trăm hai mươi tám nghìn đồng).

5. Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản ngày 26/3/2019 là 500.000 đồng, chi phí Hợp đồng đo đạc là 2.473.000 đồng, tổng cộng là 2.973.000 đồng (Hai triệu Cn trăm bảy mươi ba nghìn đồng) do anh Lê Thanh T đã nộp tạm ứng và chi xong. Như vậy, bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn T có trách nhiệm trả lại cho anh T số tiền là 2.973.000 đồng (Hai triệu chín trăm bảy mươi ba nghìn đồng).

6. Về án phí dân sự phúc thẩm:

Ông Nguyễn Văn T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp theo biên lai thu số 0001367 ngày 14/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Bà Nguyễn Thị S được miễn nộp tiền án phí dân sự phúc thẩm.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp dân sự quyền sử dụng đất số 260/2022/DS-PT

Số hiệu:260/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về