Bản án về tranh chấp dân sự quyền sử dụng đất số 11/2021/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LV, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 11/2021/DS-ST NGÀY 04/03/2021 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Vào các ngày 25/02 và 04/3/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện LV, tỉnh Đồng Tháp xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số: 327/2018/TLST-DS , ngày 15/10/2018, về việc “Tranh chấp dân sự quyền sử dụng đất”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2021/QĐXXST-DS, ngày 11/01/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 14/2021/QĐST-DS ngày 27/01/2021 giữa.

1. Nguyên đơn:

Nguyễn Thị M, sinh năm 1957. Địa chỉ cư trú: Số 408, ấp An Hòa, xã Định An, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).

Nguyễn Thị S, sinh năm 1962. Địa chỉ cư trú: Số 2/8A, ấp Đông Thạnh B, phường Mỹ Thạnh, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang (Có mặt).

2. Bị đơn: Nguyễn Thị H, sinh năm 1952 và Nguyễn Thị T, sinh năm 1977. Cùng địa chỉ cư trú: Số 306, ấp An Hòa, xã Định An, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1965. Địa chỉ cư trú: Số 407, ấp An Hòa, xã Định An, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Có đơn xin vắng mặt).

Anh Phạm Thế B, sinh năm 1972. Địa chỉ cư trú: Số 407, ấp An Hòa, xã Định An, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt).

Anh Ngô Quốc Th, sinh năm 1984 (con bà M). Địa chỉ cư trú: Số 408, ấp An Hòa, xã Định An, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt).

Ủy ban nhân dân huyện LV; địa chỉ: Khóm Bình Thạnh 1, thị trấn Lấp Vò, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp. Người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Thị N, chức vụ: Chủ tịch, là người đại diện theo pháp luật (Có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện; biên bản lấy lời khai; biên bản tiếp cận, công khai chứng cứ; biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị M và bà Nguyễn Thị S trình bày:

Nguồn gốc đất là của cha Nguyễn Văn P (chết năm nào không nhớ) và mẹ Nguyễn Thị C (chết năm nào không nhớ) để lại cho chị em bà H, Mít, Sàng sử dụng từ năm 1975 cho đến nay. Việc để lại đất không có giấy tờ.

Bà M cất nhà trên phần đất giáp sông từ năm 1975, đến năm 2015 thì lên phần đất tranh chấp cất nhà (hai phần đất này cách nhau con đường) căn nhà giáp sông hiện nay vẫn còn sử dụng để làm kho. Hiện trạng căn nhà trên đất tranh chấp giống như biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án (nhà chính diện tích 53,2m2, mái che diện tích 21,1m2).

Đến khi nào bà bà H đi đăng ký quyền sử dụng đất và đứng tên phần đất này thì bà M, bà S không biết.

Nay bà Nguyễn Thị M yêu cầu bà Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị T trả lại đất diện tích 224m2, theo đo đạc thực tế thể hiện ở các mốc 4, 6, 10, 9, 3, 5 và trở về 4 thuộc một phần thửa số 100, tờ bản đồ số 27, đất tọa lạc ấp An Hòa, xã Định An, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị T đối với diện tích 224m2, thuộc thửa số 100, tờ bản đồ số 27. Bà M xác định là không tranh chấp thừa kế với bà H.

Bà M không đồng ý di dời nhà trả đất theo yêu cầu của bà H, đồng ý di dời lò nhuộm lát ra khỏi phần đất của bà H.

Bà Nguyễn Thị S xác định từ trước đến nay bà không có sử dụng đất, lý do là bà có chồng và ở bên chồng ở An Giang. Phần đất tranh chấp là của cha, mẹ, nên bà S yêu cầu bà Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị T trả lại đất diện tích 224m2, theo đo đạc thực tế thể hiện ở các mốc 1, 2, 8, 7 về mốc 1 thuộc một phần thửa số 100, tờ bản đồ số 27, đất tọa lạc ấp An Hòa, xã Định An, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị T đối với diện tích 224m2, thuộc thửa số 100, tờ bản đồ số 27. Bà S xác định không tranh chấp thừa kế với bà H.

Theo đơn phản tố, biên bản tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản hòa giải và tại phiên tòa bị đơn bà Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị T trình bày:

Nguồn gốc đất là của cha Nguyễn Văn P (chết năm 1991) và mẹ Nguyễn Thị C (chết năm 1977). Khi còn sống cha bà H để lại phần đất này cho bà H, để bà H nuôi bà K và thờ cúng ông bà. Việc cha bà H để đất cho bà H thì không có giấy tờ gì, chỉ nói miệng. Lúc cha bà H cho đất bà H thì cha bà H chưa được được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi được cho thì bà H đi đăng ký và được cấp quyền sử dụng đất lần đầu vào ngày 27/11/ 1991, thửa 411, tờ bản đồ số 03a, diện tích 840m2 (trong đó 300m2 đất thổ và 540m2 đất LNK), việc bà H đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cha bà cũng biết. Đến năm 2011 thì cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thành thửa 100 tờ bản đồ số 27, diện tích 783,5m2 (trong đó có 300m2 đất thổ và 483,5m2 đất LNK).

Khi cấp đổi quyền sử dụng đất vào năm 2011 thì đất trồng cây tạp. Nhà của bà M cất trên đất khoảng 2015, lý do cất nhà là vì nhà bà M ở mé sông xuống cấp nên di dời lên trên, vì tình cảm chị em nên bà cho cất, bà M chỉ sử dụng khuôn viên nhà, chứ không có sử dụng phần đất xung quanh. Riêng bà S thì không có sử dụng phần đất này.

Theo đơn phản tố ngày 30/10/2018 của bà Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà M di dời căn nhà gỗ tạp, mái lợp tol, diện tích 40m2 (Ngang 4 mét, dài 10 mét) và di dời máy dệt chiếu ra khỏi phần đất đang tranh chấp, vì phần đất này bà H được cấp quyền sử dụng đất lần đầu vào năm 1991 và được cấp đổi vào năm 2011.

Ngày 30/12/2019 bà Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị T có đơn yêu cầu bổ sung cụ thể: Bà Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà M và Anh Ngô Quốc Th (con bà M) di dời căn nhà gỗ tạp, mái lợp tol, diện tích 40m2 (Ngang 4 mét, dài 10 mét) và di dời máy dệt chiếu, lò nhuộm lát ra khỏi phần đất đang tranh chấp.

Nay bà H không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của bà M và bà S. Bà H đồng ý hỗ trợ tiền di dời cho bà M số tiền là 5.000.000 đồng. Trường hợp bà M tiếp tục ở trên đất thì bà H và chị T đồng ý cho ở trong phạm vi căn nhà thể hiện ở các mốc 4, 6, 10, 5 và trở về 4 và phải trả giá trị cho bà H theo giá của Hội đồng định giá đã định loại đất cây lâu năm.

Thống nhất với biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, sơ đồ đo đạc đất và biên bản định giá.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Anh Phạm Thế B trình bày: Nguồn gốc đất giống như lời trình bày của mẹ là bà H. Bà ngoại Anh B tên Nguyễn Thị C chết năm 1977, ông ngoại Anh B tên Nguyễn Văn P chết khoảng năm 1990.

Trên phần đất tranh chấp trước đây có ngôi nhà của ông bà ngoại Anh B để lại, đến khoảng năm 2000 thì nhà sập. Sau đó thì Nhà nước cất nhà tình thương cho bà K ở, sau đó thì nhà hư, đến khoảng năm 2016 – 2017 thì Anh B và chị T cất lại nhà cho bà K như hiện nay.

Anh B không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn bà M và bà S, thống nhất theo yêu cầu của bà H và T. Ngoài ra không có ý kiến gì thêm.

Thống nhất với biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, sơ đồ đo đạc đất và biên bản định giá.

Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, kể từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử đều đúng quy định của pháp luật.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đúng quy định của pháp luật.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xác minh làm rõ ai là người đứng tên trong sổ mục kê đối với phần đất tranh chấp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn thì Tòa án xác định quan hệ tranh chấp trong vụ kiện này là “Tranh chấp về dân sự quyền sử dụng đất”, đất tranh chấp và địa chỉ của bị đơn tại huyện LV, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Huyện LV, theo quy định tại khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Bà Nguyễn Thị K và Ủy ban nhân dân huyện LV có đơn xin vắng mặt, Anh Ngô Quốc Th và Anh Phạm Thế B đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng văng mặt không có lý do. Căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà K, Ủy ban nhân dân huyện LV, anh Thái và Anh B.

[3] Nội dung tranh chấp:

[3.1] Về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất: Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều trình bày thống nhất về nguồn gốc đất của ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị C. Bà H sử dụng đất này từ lúc ông P còn sống, bà M có sử dụng đất để cất nhà, nhưng đất dưới mé sông không phải sử dụng phần đất tranh chấp, đến năm 2015 do nhà dưới mé sông xuống cấp nên bà M lên phần đất phía trên cất nhà. Còn bà S thì từ trước đến nay không sử dụng đất.

[3.2] Bà M và bà S không xác định năm chết của ông P và bà Chọn. Còn bà H, chị T, Anh B thì xác định bà Chọn chết năm 1977, ông P chết năm 1991. ông P, bà Chọn có tổng cộng 04 người con gồm: Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị Kép và Nguyễn Thị S. Khi ông P, bà Chọn chết không để lại di chúc.

[3.3] Bà M và bà S cho rằng phần đất các bà yêu cầu bà H trả lại cho mỗi người diện tích 224m2 là do cha các bà là ông P cho các bà sử dụng từ năm 1975 cho đến nay. Thực tế thì bà M có sử dụng phần đất dưới mé sông để cất nhà và hiện nhà dưới mé sông vẫn còn, phần đất dưới mé sông cách đất tranh chấp con đường đất, đến năm 2015 thì lên phần đất tranh chấp cất nhà. Còn bà S thì từ trước đến nay không có sử dụng đất này. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà M và bà S xác định là khởi kiện bà H tranh chấp quyền sử dụng đất nhưng các bà không xuất trình được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình.

[3.4] Bà H thì xác định, khi ông P còn sống có cho bà diện tích đất tranh chấp và phần đất này bà sử dụng từ trước đến nay, khi cho thì ông P chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau khi được cho thì bà H đi kê khai đăng ký và được cấp quyền sử dụng đất vào năm 1991. Đến năm 2011 thì được cấp đổi quyền sử dụng đất. Khi bà H được cấp đất lần đầu và cấp đổi thì không có ai tranh chấp.

[3.5] Theo hồ sơ thể hiện thì phần đất tranh chấp bà H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu vào ngày 27/11/ 1991 thửa 411, tờ bản đồ số 03a, diện tích 840m2 (trong đó 300m2 đất thổ và 540m2 đất LNK). Đến năm 2011 thì cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thành thửa 100 tờ bản đồ số 27, diện tích 783,5m2 (trong đó có 300m2 đất thổ và 483,5m2 đất LNK). Đo đạc thực tế 815,4m2. Hiện trạng trên đất có nhà của bà K, nhà của bà M xây dựng năm 2015, 01 lò nhuộn lát của bà M và cây trồng do bà H trồng. Các đương sự thống nhất đất và tài sản có trên đất giống như biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án và sơ đồ đo đạc đất của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện LV.

Theo Công văn số 37/UBND-NC ngày 26/02/2020 của Ủy ban nhân dân huyện LV cho rằng hồ sơ cấp đất lần đầu vào năm 1991 cho bà H chưa tìm được. Còn hồ sơ cấp đổi năm 2011 thì có các hộ giáp ranh ký tên.

[3.6] Xét việc bà H được cấp quyền sử dụng đất lần đầu vào năm 1991 đối với phần đất tranh chấp là phù hợp với quy định tại Điều 166 Luật đất đai. Bà M, bà S khởi kiện tranh chấp đất với bà H nhưng không đưa ra được chứng cứ gì chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của các bà là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M và bà S.

[3.7] Tại phiên tòa, bà H và chị T có thay đổi yêu cầu phản tố, thống nhất cho bà M sử dụng phần nhà trên đất thể hiện ở các mốc 4, 6, 10, 5 và trở về 4, diện tích 86,3m2 và phải trả giá trị cho bà H theo giá của hội đồng định giá đã định loại đất cây lâu năm với giá 90.000 đồng/m2, thành tiền là 7.767.000 đồng. Xét tự nguyện của bà H và chị T là phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Buộc bà Nguyễn Thị M trả cho bà Nguyễn Thị H 7.767.000 đồng (Bảy triệu bảy trăm sáu mươi bảy nghìn đồng).

[3.8] Đối với lò nhuộm lát của bà M xây trên đất bà H, tại tòa bà M đồng ý tháo dở, di dời, xét tự nguyện của bà M là phù hợp, nên chấp nhận. Bà M có nghĩa vụ di dời lò nhuộm lát ra khỏi đất bà H.

[3.9] Bà M được đến Cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích đất 86,3m2, đất trồng cây lâu năm thể hiện ở các mốc 4,6,10, 5 và trở về 4, thuộc một phần thửa số 100, tờ bản đồ số 27. Chi phí làm thủ tục đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà M chịu.

Hộ bà H được đến Cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo diện tích đất thực tế sử dụng, thửa số 100, tờ bản đồ số 27.

Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 28/12/2018 của Tòa án và sơ đồ đo đạc đất ngày 24/02/2020 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện LV.

[3.10] Xét đề nghị của kiểm sát viên tài phiên tòa, đề nghị thu thập thêm chứng cứ là sổ mục kê do ai đứng tên, căn cứ vào chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa về nguồn gốc đất và quá trình kê khai đăng ký đất đã rõ, nên không cần thiết phải thu thập thêm. Do đó, không chấp nhận đề nghị của viện kiểm sát.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà M và bà S không được chấp nhận yêu cầu nên phải chịu án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Do bà M là người cao tuổi và có đơn xin miễn tiền án phí theo quy định tại Điều 2 Luật người cao tuổi năm 2009, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, nên miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm cho bà M.

[5] Tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá: Bà M và bà S phải chịu theo quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự (đã thu và chi xong). Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 166 Luật đất đai; Điều 357 Bộ luật dân sự; khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 2 Luật người cao tuổi năm 2009; điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M và bà Nguyễn Thị S.

Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị T.

Bà Nguyễn Thị M được đến Cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích đất 86,3m2, đất trồng cây lâu năm thể hiện ở các mốc 4,6,10, 5 và trở về 4, thuộc một phần thửa số 100, tờ bản đồ số 27 theo quy định của pháp luật. Chi phí làm thủ tục đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà M chịu.

Bà Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị T được đến Cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo di ện tích đất thực tế sử dụng, thửa số 100, tờ bản đồ số 27.

Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 28/12/2018 của Tòa án và sơ đồ đo đạc đất ngày 24/02/2020 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện LV (Có biên bản và sơ đồ kèm theo).

Buộc bà Nguyễn Thị M trả cho bà Nguyễn Thị H, chị Nguyễn Thị T 7.767.000 đồng (Bảy triệu bảy trăm sáu mươi bảy nghìn đồng).

Bà Nguyễn Thị M có nghĩa vụ di dời lò nhuộm lát ra khỏi đất để trả lại đất cho bà H.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Tiền án phí dân sự sơ thẩm:

Miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm cho bà Nguyễn Thị M. Bà M được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.400.000 đồng (Một triệu bốn trăm nghìn đồng) theo theo biên lai số BH/2017/0003129 ngày 05/10/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện LV.

Bà Nguyễn Thị S phải chịu 1.000.000 đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.400.000 đồng (Một triệu bốn trăm nghìn đồng) theo theo biên lai số BH/2017/0003130 ngày 05/10/2018. Bà S được nhận lại 400.000 đồng, tại Chi cục thi hành án dân sự huyện LV.

Bà H, chị T được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo theo biên lai số BH/2018/0000137 ngày 12/3/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện LV.

Tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá bà Nguyễn Thị M và bà Nguyễn Thị S chịu 2.740.000 đồng ( Hai triệu bảy trăm bốn mươi nghìn đồng) (đã thu và chi xong).

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt án có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật Thi hành án dân sự;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

78
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp dân sự quyền sử dụng đất số 11/2021/DS-ST

Số hiệu:11/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về