TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 04/2023/HNGĐ-PT NGÀY 21/03/2023 TRANH CHẤP CẤP DƯỠNG NUÔI CON CHUNG
Trong ngày 21 tháng 3 năm 2023, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân tỉnh H, xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 03/2023/TLPT - HNGĐ ngày 16 tháng 02 năm 2023 Do Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 206/2022/HNGĐ-ST, ngày 15 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân thành phố V, tỉnh H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 04/2023/QĐ - PT ngày 24 tháng 02 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1988.
Địa chỉ: Khu phố K, phường Q, thành phố R, tỉnh K. Địa chỉ liên hệ: Phường A, quận P, Thành phố H –
Bị đơn: Ông Huỳnh Vũ K, sinh năm 1982. Hộ khẩu thường trú: xã V, huyện T, tỉnh H.
Nơi làm việc: Ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh H.
Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì nội dung vụ án như sau:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu T trình bày: Bà và bị đơn ông Huỳnh Vũ K đã thuận tình ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự số 91/2015/QĐST ngày 25/6/2015 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh H, đã có hiệu lực pháp luật. Bà và ông K có một con chung Huỳnh Nguyễn Huy K, sinh ngày 15/01/2013, giới tính: Nam. Về con chung giao cho bà trực tiếp nuôi dưỡng, bà chưa yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, vì lúc đó giữa bà và ông K có thỏa thuận miệng hàng tháng ông K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, sau khi ly hôn ông K chỉ thực hiện việc cấp dưỡng theo thỏa thuận miệng được vài ba tháng thì không cấp dưỡng nữa, chị đã liên hệ yêu cầu ông K nhiều lần cấp dưỡng nuôi con nhưng không được. Đồng thời, từ khi ly hôn đến nay ông K không liên hệ điện thoại hay đến thăm con, ông K không có trách nhiệm với con. Nay bà khởi kiện yêu cầu ông Huỳnh Vũ K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung tên Huỳnh Nguyễn Huy K, giới tính: nam, sinh ngày 15/01/2013 mỗi tháng là 4.000.000đồng (bốn triệu đồng). Bởi hiện nay ông K có thu nhập ổn định hàng tháng trên 13.000.000đồng.
Tại phiên họp hòa giải (ngày 04/7/2022), bà T yêu cầu anh K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng số tiền 4.000.000đồng từ khi bản án, quyết định có hiệu lực đến khi con chung tròn 18 tuổi.
- Bị đơn ông Huỳnh Vũ K tại bản tự khai, phiên họp hòa giải trình bày: Ông và bà Nguyễn Thị Thu T đã thuận tình ly hôn vào năm 2015 theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự số 91/2015/QĐST ngày 25/6/2015 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh H, đã có hiệu lực pháp luật. Về con chung tên Huỳnh Nguyễn Huy K, giới tính: Nam, sinh ngày 15/01/2013 giao cho bà T nuôi dưỡng, ông chưa phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Nhưng sau đó ông và bà T có thỏa thuận miệng cấp dưỡng nuôi con, ông thực hiện cấp dưỡng được khoảng 01 năm, nhưng do điều kiện kinh tế khó khăn nên không thể tiếp tục cấp dưỡng. Nay ông đồng ý cấp dưỡng nuôi con, nhưng về mức cấp dưỡng, ông không đồng ý theo yêu cầu của bà T số tiền 4.000.000đồng/tháng, ông đồng ý mức cấp dưỡng theo quy định pháp luật 50% mức lương cơ sở (1.490.000đồng), đồng ý tương đương số tiền 800.000đồng/tháng. Do hiện nay, bản thân ông đang bị bệnh viêm gan siêu vi B, bệnh tiểu đường, bệnh gút và phải uống thuốc điều trị hàng tháng. Đồng thời, anh còn phải chăm sóc, nuôi dưỡng cho cha mẹ già đang bị bệnh.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Nguyên đơn bà T thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con cháu Huỳnh Nguyễn Huy K số tiền 3.000.000đồng/tháng từ khi xét xử đến khi con đủ 18 tuổi. Và chị T yêu cầu khởi kiện bổ sung, yêu cầu ông K trả tiền nợ cấp dưỡng số tiền 148.000.000đồng và lãi chậm nộp, vì ông K có thỏa thuận cấp dưỡng cho con hàng tháng số tiền 2.000.000đồng, do ông K đã ngưng cấp dưỡng từ ngày 25/6/2016 đến tháng 9/2022 là 06 năm 02 tháng (74 tháng x 2.000.000đồng), do bà đã nuôi con trong thời gian qua, nên ông K phải có nghĩa vụ trả nợ cấp dưỡng.
Bị đơn ông K, đồng ý cấp dưỡng nuôi con hàng tháng số tiền 1.500.000đồng/tháng từ khi bản án có hiệu lực đến khi con đủ 18 tuổi. Đối với yêu cầu khởi kiện bổ sung của bà T, ông K không đồng ý, ông không có nợ bà T số tiền 148.000.000đồng như bà T trình bày, việc cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án nhân dân huyện T không ghi nhận, trước đó ông chỉ tự nguyện cấp dưỡng nuôi con, nay bà T cho rằng còn nợ số tiền 148.000.000đồng là không đúng.
Tại Bản án sơ thẩm số 206/2022/HNGĐ-ST ngày 15 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố V, tuyên xử như sau:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu T.
Buộc bị đơn ông Huỳnh Vũ K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cháu Huỳnh Nguyễn Huy K, giới tính: Nam, sinh ngày 15/01/2013, hàng tháng số tiền 1.500.000đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng), kể từ ngày xét xử sơ thẩm (ngày 15/9/2022) đến khi cháu Huỳnh Nguyễn Huy K đủ 18 tuổi.
Án phí cấp dưỡng: Ông Huỳnh Vũ K phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng).
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu T kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh H xem xét hủy Bản án sơ thẩm số 206/2022/HNGĐ-ST ngày 15/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố V. Đồng thời bà T yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm truy thu số tiền nợ cấp dưỡng đối với bị đơn Huỳnh Vũ K số tiền 148.000.000đồng. Bà yêu cầu nâng mức cấp dưỡng cho cháu Huỳnh Nguyễn Huy K 3.000.000đồng/1 tháng.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.
Bị đơn ông Huỳnh Vũ K tự nguyện nâng số tiền cấp dưỡng hàng tháng cho con chung từ 1.500.000đồng/tháng lên 2.000.000đồng/tháng.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng qui định của pháp luật tố tụng.
Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng, ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn ông Huỳnh Vũ K nâng mức cấp dưỡng từ 1.500.000đồng/tháng lên 2.000.000đồng/tháng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu T khởi kiện bị đơn ông Huỳnh Vũ K yêu cầu ông có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con chung” đúng theo quy định tại khoản 5 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn có đơn kháng cáo đúng qui định tại các Điều 271, 272, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung
[2.1] Xét nội dung nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu T kháng cáo yêu cầu bị đơn ông Huỳnh Vũ K có nghĩa vụ truy trả số tiền tự nguyện cấp dưỡng cho cháu Huỳnh Nguyễn Huy K từ tháng 4 năm 2016 cho đến ngày xét xử sơ thẩm (15/9/2022) là 74 tháng x 2.000.000đồng/tháng = 148.000.000đồng. Hội đồng xét xử, xét thấy bà T bổ sung yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa sơ thẩm, không thuộc phạm vi khởi kiện ban đầu, chưa được Tòa án tiến hành các thủ tục tố tụng hòa giải, công khai chứng cứ đối với các bên theo quy định pháp luật. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét, sẽ giải quyết thành vụ án khác, là hoàn toàn có căn cứ, đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận xem xét yêu cầu kháng cáo của bà T. Bà T có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác, nếu có cơ sở.
[2.2] Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn yêu cầu nâng mức cấp dưỡng cho cháu Huỳnh Nguyễn Huy K từ 1.500.000đồng lên 2.000.000đồng.
Xét thấy, bị đơn ông Huỳnh Vũ K có nguồn thu nhập ổn định từ lương và các khoản phụ cấp (số tiền 13.931.000đồng/tháng), không có nguồn thu nhập nào khác. Nguồn thu nhập ông K cần chi trả cho các khoản chi phí sinh hoạt hợp lý của bản thân trước gồm chi phí ăn, ở, sinh hoạt hàng tháng và do ông K có bệnh nên dùng thuốc điều trị là phù hợp. Ông K có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ. Tòa án cấp sơ thẩm đã cân đối với thu nhập, khả năng thực tế, sau khi trừ các chi phí hợp lý để quyết định mức cấp dưỡng cho cháu Huỳnh Nguyễn Huy K mỗi tháng 1.500.000đồng là có cơ sở.
Mặt khác, cháu Nguyễn Huỳnh Huy K đang học cấp tiểu học nên các chi phí nhu cầu thiết yếu chưa cao, với mức sống thu nhập trung bình của người dân hiện nay theo mức lương cơ sở hiện hành là 1.490.000đồng/tháng. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định mức cấp dưỡng mỗi tháng 1.500.000đồng/tháng là phù hợp, cân đối với khả năng thực tế của ông K và cơ bản đảm bảo nhu cầu thiết yếu của cháu K. Về mức cấp dưỡng nếu có lý do chính đáng, có thể thay đổi do các bên thỏa thuận, hoặc có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.
[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu T. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về án phí phúc thẩm không ai phải chịu
[6] Các phần quyết định của Bản án sơ thẩm không bị Viện kiểm sát kháng nghị, không bị đương sự kháng cáo, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị, kháng cáo.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về qui định mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu T. Sửa một phần bản án sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu T.
Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn ông Huỳnh Vũ K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cháu Huỳnh Nguyễn Huy K, giới tính: Nam, sinh ngày 15/01/2013, hàng tháng số tiền 2.000.000đồng (hai triệu đồng).
Thời hạn cấp dưỡng kể từ ngày xét xử sơ thẩm (ngày 15/9/2022) đến khi cháu Huỳnh Nguyễn Huy K đủ 18 tuổi.
2. Án phí cấp dưỡng: Buộc ông Huỳnh Vũ K phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Ngày 21/3/2023).
Bản án về tranh chấp cấp dưỡng nuôi con chung số 04/2023/HNGĐ-PT
Số hiệu: | 04/2023/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về