Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 42/2023/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 42/2023/DS-PT NGÀY 26/06/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Trong các ngày 22 và 26 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh P xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 37/2023/TLPT-DS ngày 08/5/2023 về việc: “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2023/DS-ST ngày 15/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện TS, tỉnh P bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2023/QĐXX-PT ngày 23/5/2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Trần Văn N, sinh năm 1971 TT: khu A, xã C, huyện TS, tỉnh P.

Người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1986 TT: khu B, xã C, huyện TS, tỉnh P. Theo hợp đồng ủy quyền ngày 18/12/2020

Bị đơn: Ông Trần Văn T1, sinh năm 1960 Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1963 Đều TT: khu A, xã C, huyện TS, tỉnh P. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn:

Bà Đỗ Thị Hương G - Luật sư công ty Luật TNHH TM - Đoàn luật sư TP Hà Nội.

Địa chỉ: Công ty Luật TNHH TM: Số 3, M1, phường Y1, quận N1, thành phố Hà Nội.

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Công ty Điện lực P Địa chỉ: Phường G1, Thành phố VT, tỉnh P.

Người được ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Nguyễn Anh P - Giám đốc điện lực TS Địa chỉ:Thị trấn TS, huyện TS, tỉnh P.

2. Công ty Viettel P Địa chỉ: Phường N2, Thành phố VT, tỉnh P.

Người được ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Phạm Văn Đ - Giám đốc kỹ thuật Viettel TS.

Địa chỉ: Thị trấn TS, huyện TS, tỉnh P.

(ông N, bà T, ông T1, bà C, bà Giang đều có mặt, ông Đ, ông P vắng mặt) Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị C bị đơn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, những lời trình bày tiếp theo tại Tòa án và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn, đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình bày:

Vào hồi 08 giờ ngày 06/12/2019 sẩy ra vụ cháy tại kho phế liệu của gia đình ông Trần Văn T1, bà Nguyễn Thị C thuộc khu A, xã C, huyện TS, tỉnh P.

Vụ cháy đã lan sang gia đình ông Trần Văn N và gây thiệt hại cho gia đình ông về nhà ở và nhiều tài sản là đồ dùng sinh hoạt trong gia đình theo biên bản thiệt hại về tài sản. Theo Biên bản định giá ngày 26/3/2020 của Hội đồng định giá huyện TS ước tính giá trị thiệt hại của gia đình ông N là 81.210.000đ (tám mươi mốt triệu hai trăm mười nghìn đồng). Nguyên nhân sẩy ra cháy là do chập điện ở đường dây dẫn điện 03 pha từ cột 18B dẫn vào nhà kho của ông T1, bà C. Do gia đình ông T1, bà C tự đấu nối lấy. Nay ông N yêu cầu ông T1, bà C phải có trách nhiệm bồi thường số tiền thiệt hại cho gia đình ông theo như biên bản định giá của Hội đồng định giá huyện TS với tổng số tiền thiệt hại là 81.210.000đ (Tám mươi mốt triệu hai trăm mười nghìn đồng).

Phía bị đơn trình bày: Vào hồi 08 giờ 30 phút ngày 06/12/2019 thì sẩy ra vụ cháy tại cột điện 18B thuộc khu A, xã C, huyện TS, tỉnh P do điện lực TS quản lý. Nguyên nhân là do cháy dây nguồn cấp điện gây ra, Điện vào các đồng hồ của 12 hộ dân treo trên cột điện 18B thì có đến 14 đồng hồ thì trong đó có đồng hồ 03 pha và 09 đồng hồ sinh hoạt. Khi cháy ở cột điện 18B ngọn lửa cháy rất to, bắn tia lửa điện làm cho mọi người không xử lý được, dẫn đến cháy đứt dây điện hạ thế của điện lực và toàn bộ cột điện 18B, rơi xuống kho hàng hóa của gia đình ông T1, bà C lan sang ngôi nhà hai tầng cháy toàn bộ lán xưởng và kho chứa hàng. Vụ cháy diễn ra suốt 12 giờ đồng hồ.

Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện TS kết luận vụ cháy là do gia đình ông bà gây ra, bà không nhất trí vì đây là vụ cháy do điện lực TS gây nên. Vụ cháy này có cháy đến nhà ông Trần Văn N, bà Phạm Thị L. Theo kết luận của cơ quan cảnh sát điều tra, và biên bản định giá của Hội đồng định giá huyện TS, định giá giá trị thiệt hại là 81.210.000đ, ông N bà L yêu cầu gia đình ông bà phải bồi thường số tiền trên bà không nhất trí.

Sau khi nhận được kết luận của cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện TS bà khiếu nại quyết định trên lên cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh P và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P, bà đã nhận được phản hồi của hai cơ quan trên giống như kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện TS, gia đình ông T1, bà C không nhất trí, và cũng không đồng ý bồi thường cho gia đình ông, bà N-L, với lý do: Vụ cháy này do điện lực TS gây nên, thì điện lực TS, phải có trách nhiệm bồi thường cho gia đình ông N, bà L.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đại diện Công ty Điện lực P trình bày: Ngày 06/12/2019 tại cột điện 18B thuộc khu A, xã C, huyện TS, tỉnh P có sẩy ra cháy, nguyên nhân do chập mạch điện trên đầu đoạn dây điện được nối từ át tô mát vào nhà kho của gia đình ông T1. Đoạn dây này do gia đình ông T1, bà C quản lý và sử dụng. Đây là đoạn dây điện do ông T1, bà C tự thuê người đấu nối. Sau khi bị chập, đã phát cháy và gây cháy các phế liệu của gia đình ông T1, để tại chân cột điện 18B, làm ngọn lửa cháy lan vào bên trong kho chứa đồ phế liệu của gia đình ông T1, bà C từ đó lan sang ngôi nhà ở của gia đình ông T1, bà C và cháy lan sang nhà ở của gia đình ông N, bà L.

Theo hợp đồng mua bán điện giữa gia đình ông T1 và điện lực thì dây điện sau đồng hồ công tơ do các hộ sử dụng điện quản lý (Có hợp đồng kèm theo). Còn đối với quy định về đảm bảo an toàn phòng cháy chữa cháy đối với hệ thống lưới điện của điện lực thì chỉ có quy định về đảm bảo an toàn phòng cháy đối với các trạm biến áp, còn các đường dây sau trạm biến áp không có quy định về phòng cháy. Vì vậy điện lực TS không có trách nhiệm.

Còn cột điện 18B không nằm trong diện tích đất của gia đình ông T1, bà C, gia đình ông T1, bà C đã lấn chiếm hành lang an toàn giao thông lưới điện. Điện lực TS cùng với chính quyền địa phương đã có văn bản nhắc nhở gia đình ông T1, bà C, nhưng gia đình không chấp hành, vẫn để các vật liệu phế thải gây cháy tại chân cột điện, nên dẫn đến vụ cháy vào ngày 06/12/2019.

Quan điểm của điện lực TS. Theo kết luận của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TS và cơ quan chuyên môn, vụ cháy sẩy ra là do chập dây dẫn điện sau đồng hồ công tơ do gia đình ông T1 bà C quản lý, nên điện lực TS không có nghĩa vụ phải bồi thường.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đại diện Đại diện Viettel TS trình bày: Ngày 06/12/2019 có sẩy ra vụ cháy trên cột điện số 18B tại khu A, xã C, huyện TS, tỉnh P, Thời điểm trước khi sẩy ra vụ cháy bên Viettel có treo 01 tủ cổng thuê bao, 01 cáp trục gon và 01 cáp truyền dẫn trên cột điện 18B theo như thỏa thuận đã ký kết giữa tập đoàn điện lực và tập đoàn Viettel. Sau thời điểm sẩy ra cháy bên Viettel đã tự khắc phục nên không có yêu cầu gì với bên gây ra thiệt hại cho Viettel. Phía Viettel cũng khẳng định Viettel sử dụng cáp quang nên không thể gây ra tia lửa điện để gây ra cháy.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2023/DS-ST ngày 15/3/2023, Tòa án nhân dân (TAND) huyện TS đã quyết định Áp dụng: Điều 584,Điều 585,Điều 589, Điều 357 Bộ luật dân sự 2015, và khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 273 – Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn N.

Buộc ông Trần Văn T1, bà Nguyễn Thị C phải bồi thường cho gia đình ông Trần Văn N các thiệt hại về nhà và tài sản theo biên bản định giá của Hội đồng định giá huyện TS ngày 26/3/2020 số tiền là 81.210.000đ (Tám mươi mốt triệu hai trăm mười nghìn đồng). ông T1, bà C phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường một lần số tiền 81.210.000đ (Tám mươi mốt triệu hai trăm mười nghìn đồng) cho ông Trần Văn N Ngoài ra bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí, chi phí tố tụng, quyền yêu cầu thi hành án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Ngày 14/4/2023 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P kháng nghị đề nghị Huỷ bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2023/DS-ST ngày 15/3/2023, Tòa án nhân dân huyện TS do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng phiên toà ngày 15/3/2023 bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn vắng mặt lần thứ nhất, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn có đơn xin hoãn phiên toà, tuy nhiên toà án huyện TS không hoãn phiên toà mà đã đưa vụ án ra xét xử là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.

Ngày 04/4/2023 bà Nguyễn Thị C và kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm bà cho rằng nguyên nhân sảy ra cháy là do lỗi của điện lực TS nên bà không đồng ý với bản án sơ thẩm xử buộc bà phải bồi thường cho gia đình ông N. Tại phiên tòa phúc thẩm bà C và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà C nhất trí với nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng phiên toà ngày 28/2/2023 bị đơn, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn có mặt chứ không phải vắng mặt. Như vậy, phiên toà ngày15/3/2023 bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn vắng mặt lần thứ nhất, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn có đơn xin hoãn phiên toà, tuy nhiên toà án huyện TS không hoãn phiên toà mà vẫn đã đưa vụ án ra xét xử là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn. Do vậy, bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cũng nhất trí với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P đề nghị Huỷ bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2023/DS-ST ngày 15/3/2023, Tòa án nhân dân huyện TS.

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P giữ nguyên nội dung kháng nghị.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận kháng nghị của VKS nhân dân tỉnh P huỷ bản án sơ thẩm 04/2023/DS- ST ngày 15/3/2023, Tòa án nhân dân huyện TS. Giao hồ sơ cho Toà án nhân dân huyện TS giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

(Chi tiết tại bài phát biểu của Kiểm sát viên lưu hồ sơ vụ án).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng cáo của bà Nguyễn Thị C và kháng nghị của VKS nhân dân tỉnh P trong hạn luật định, đơn hợp lệ, nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Nội dung kháng cáo, kháng nghị trong phạm vi xét xử của bản án sơ thẩm. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét nội dung này theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung kháng cáo và kháng nghị: Tại phiên toà bà C và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà C có ý kiến xin bổ sung kháng cáo nhất trí với kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh P huỷ bản án sơ thẩm 04/2023/DS-ST ngày 15/3/2023, Tòa án nhân dân huyện TS cho rằng phiên toà ngày15/3/2023 bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn vắng mặt lần thứ nhất, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn có đơn xin hoãn phiên toà, tuy nhiên toà án huyện TS không hoãn phiên toà mà vẫn đã đưa vụ án ra xét xử là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Hội đồng xét xử nhận thấy:

Sau khi ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, ngày 15/02/2023 Toà án nhân dân huyện TS, tỉnh phú Thọ ra thông báo mở lại phiên toà và ấn định thời gian mở lại phiên toà vào ngày 28/02/2023, đến trước ngày mở phiên toà Viện kiểm sát nhân dân huyện TS có văn bản đề nghị toà án hoãn phiên toà ngày 28/2/2013.Trong quyết định hoãn phiên toà số: 06/2023/QĐST-DS ngày 28/2/2023 toà án nhân dân huyện TS ghi lý do hoãn phiên toà do Viện kiểm sát nhân dân huyện TS có văn bản đề nghị toà án hoãn phiên toà, không ghi lý do hoãn phiên tòa là do bị đơn, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn vắng mặt và ấn định thời gian mở lại phiên toà vào ngày 15/3/2023. Tại phiên toà ngày 15/3/2023, bị đơn và luật sư Giang bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn vắng mặt lần thứ nhất, luật sư Phương bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn có đơn xin hoãn phiên toà lần 1. Theo quy định của pháp luật phiên toà ngày 15/3/2023, bị đơn và luật sư Giang bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn được coi vắng mặt lần thứ nhất. Luật sư Phương có đơn xin hoãn phiên toà thì Hội đồng xét xử phải ra quyết định hoãn phiên toà đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử vẫn quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn nên chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P và kháng cáo của bà C, huỷ bản án sơ thẩm 04/2023/DS- ST ngày 15/3/2023, Tòa án nhân dân huyện TS, giao hồ sơ cho Toà án nhân dân huyện TS giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Trong vụ án này bản án của Toà án nhân dân huyện TS khi quyết định có các nội dung cần rút kinh nghiệm sau:

Vụ án nguyên đơn ông N khởi kiện đề nghị ông T1, bà C bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. ông T1, bà C là bị đơn không có yêu cầu phản tố, nhưng bản án tuyên: Bác yêu cầu của ông Trần Văn T1, bà Nguyễn Thị C về việc yêu cầu điện lực TS phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho gia đình ông N. Như vậy là vượt quá phạm vi giải quyết của vụ án.

ông N khởi kiện đề nghị ông T1, bà C bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thiệt hại về tài sản của gia đình ông N là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm không xem xét đưa vợ ông N là bà Phạm Thị L vào tham gia tố tụng là không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bà L.

Về án phí: Số tiền ông T1, bà C phải bồi thường cho ông N là 81.210.000đồng, nhưng bản án sơ thẩm tuyên: Buộc vợ chồng ông Trần Văn T1, bà Nguyễn Thị C phải liên đới nộp 2.300.000đ (Hai triệu ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, việc tính án phí đối với ông T1, bà C là chưa chính xác.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên:

ông T1, bà C phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường một lần số tiền 81.210.000đ (Tám mươi mốt triệu hai trăm mười nghìn đồng) cho ông Trần Văn N Buộc gia đình ông Trần Văn T1, bà Nguyễn Thị C phải chấp hành nghiêm chỉnh Luật phòng cháy và chữa cháy và các quy định của nhà nước về bảo vệ an toàn hành lang giao thông đường bộ theo quy định pháp luật.

Các nội dung tuyên như trên trong bản án tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là không thuộc phạm vi của bản án.

Các nội dung thiếu sót trên cần rút kinh nghiệm đối với cấp sơ thẩm, để khi giải quyết lại vụ án thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. [3] Về án phí phúc thẩm: bà C thuộc trường hợp miễn án phí.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà C và bà C đề nghị HĐXX chấp nhận kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh P huỷ bản án sơ thẩm 04/2023/DS-ST ngày 15/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện TS vì vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Quan điểm của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận kháng nghị của VKS nhân dân tỉnh P, huỷ bản án sơ thẩm 04/2023/DS-ST ngày 15/3/2023, Tòa án nhân dân huyện TS.

Xét thấy, ý kiến của bị đơn, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chấp nhận kháng nghị của VKS nhân dân tỉnh P và kháng cáo của bà Nguyễn Thị C, huỷ bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2023/DS-ST ngày 15/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện TS, tỉnh P.

Giao hồ sơ cho Toà án nhân dân huyện TS, tỉnh P giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Về án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị C thuộc trường hợp miễn án phí Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 42/2023/DS-PT

Số hiệu:42/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về