Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 20/2021/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 20/2021/LĐ-ST NGÀY 01/12/2021 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI

Ngày 01 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Lao động thụ lý số: 66/2020/TLST-LĐ ngày 19 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp bảo hiểm xã hội” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXXST-LĐ ngày 08 tháng 7 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2021/QĐST-LĐ ngày 06 tháng 8 năm 2021, Thông báo mở lại phiên tòa ngày 15 tháng 10 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 42/2021/QĐST-LĐ ngày 04 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Phạm Duy P, sinh năm 1986; thường trú: Thôn X, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Trị. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn:

1/ Công ty TNHH Phạm T BD; địa chỉ: Số 53/3 đường N, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

2/ Công ty TNHH Phạm T; địa chỉ: Số 1191, Phường 13, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội thành phố D, tỉnh Bình Dương, địa chỉ: Trung tâm hành chính thành phố D, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện hợp pháp: Ông Dương Văn T; chức vụ: Nhân viên Bảo hiểm xã hội thành phố D; là người đại diện theo ủy quyền. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 28 tháng 9 năm 2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày 13 tháng 11 năm 2020 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Phạm Duy P trình bày: Ông Phạm Duy P làm việc tại Công ty TNHH Phạm T (gọi tắt là Công ty Phạm T) từ tháng 03/2014. Từ tháng 9/2014, Công ty Phạm T bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội cho ông P tại Bảo hiểm xã hội thành phố D (gọi tắt là Bảo hiểm xã hội D), mức lương tham gia bảo hiểm xã hội là 2.889.000 đồng. Ngày 01/01/2016, ông P và Công ty Phạm T ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, mức lương được điều chỉnh là 3.745.000đ/tháng. Sau đó, ông P được điều chỉnh tăng lương và đồng thời cũng tăng mức đóng bảo hiểm xã hội. Công ty Phạm T có trụ sở tại quận G, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng ông P làm việc tại chi nhánh của công ty đặt tại khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương và tham gia bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội thành phố D nên khởi kiện tại Tòa án nhân dân thành phố D. Đến tháng 01/2018, Công ty TNHH Phạm T BD thành lập và hoạt động ngay tại Chi nhánh Công ty Phạm T. Theo đề nghị của Công ty ông P đã chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty Phạm T và ký hợp đồng lao động với Công ty TNHH Phạm T BD (gọi tắt là Công ty Phạm T BD) từ ngày 01/02/2018; mức lương chính theo hợp đồng là 4.471.530đ. Ông P tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội D cho đến khi nghỉ việc (hết tháng 02/2019); mức lương chính mà Công ty Phạm T BD đóng bảo hiểm cho ông P là 4.473.000đ. Đến tháng 02/2019, ông chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty Phạm T BD nhưng cả Công ty Phạm T và Công ty Phạm T BD chưa đóng và chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông đầy đủ mặc dù hàng tháng các công ty đều trích từ tiền lương của ông để đóng bảo hiểm. Ông P đã được Công ty Phạm T đóng tiền bảo hiểm xã hội đến tháng 5/2016 và Công ty Phạm T BD đóng tiền bảo hiểm tháng 01/2018 nên trước khi mở phiên tòa ông P đã rút 01 phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc Công ty Phạm T chốt sổ bảo hiểm xã hội từ tháng 3/2014 đến tháng 5/2016. Theo đó, ông P xác định khởi kiện yêu cầu buộc Công ty TNHH Phạm T phải đóng, xác nhận quá trình tham gia bảo hiểm xã hội cho ông từ tháng 6/2016 đến tháng 01/2018 và buộc Công ty TNHH Phạm T BD phải đóng, xác nhận quá trình tham gia bảo hiểm xã hội cho ông P từ tháng 02/2018 đến tháng 02/2019.

Các bị đơn Công ty TNHH Phạm T và Công ty TNHH Phạm T BD đã được Tòa án thông báo tham gia tố tụng, thông báo yêu cầu cung cấp chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng, yêu cầu tham gia phiên họp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng các bị đơn không đến Tòa án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố, không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố D trình bày:

Chi nhánh Công ty Phạm T tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tại Bảo hiểm xã hội thành phố Dĩ An từ tháng 9/2014. Tính đến tháng 11/2020, Chi nhánh Công ty Phạm T còn nợ số tiền là 4.181.479.752 đồng, đã nộp tiền bảo hiểm xã hội đến hết tháng 05/2016. Công ty Phạm T tham gia bảo hiểm xã hội cho ông Phạm Duy P với số sổ 74141741xx bắt đầu từ tháng 9/2014 đến tháng 01/2018 (chưa chốt sổ bảo lưu). Bảo hiểm xã hội D đề nghị Công ty Phạm T thanh toán số tiền nợ bảo hiểm xã hội của ông Phạm Duy P từ tháng 06/2016 đến tháng 01/2018 và làm hồ sơ bảo lưu bảo hiểm xã hội để Bảo hiểm xã hội D bảo lưu sổ, trả sổ cho ông Phạm Duy P theo đúng quy định.

Công ty Phạm T BD tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tại Bảo hiểm xã hội thành phố D từ tháng 02/2018. Tính đến tháng 11/2020, Công ty Phạm T BD còn nợ số tiền là 3.478.381.449 đồng, đã nộp tiền bảo hiểm xã hội hết tháng 02/2018. Công ty Phạm T BD tham gia bảo hiểm xã hội cho ông Phạm Duy P tại bảo hiểm D với số sổ 74141741xx từ tháng 02/2018 đến tháng 02/2019 (chưa chốt sổ bảo lưu). Bảo hiểm xã hội D đề nghị Công ty Phạm T BD thanh toán số tiền nợ bảo hiểm xã hội của ông Phạm Duy P từ tháng 02/2018 đến tháng 02/2019 và làm hồ sơ bảo lưu bảo hiểm xã hội để Bảo hiểm xã hội D bảo lưu sổ, trả sổ cho ông Phạm Duy P theo đúng quy định.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, các bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên căn cứ vào các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng quy định. Nguyên đơn có đơn rút 01 phần yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ 01 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập và các đương sự cung cấp đã được thẩm tra tại phiên tòa, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1 Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Bị đơn Công ty TNHH Phạm T BD có trụ sở tại số 53/3 N, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương; đối với bị đơn Công ty TNHH Phạm T thì nguyên đơn lựa chọn Tòa án giải quyết nơi tổ chức có chi nhánh và nơi nguyên đơn làm việc tại số 53/3 N, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố D theo điểm d khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Các bị đơn Công ty Phạm T và Công ty Phạm T BD không có yêu cầu phản tố, đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan; nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố D có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[1.3] Về rút 01 phần yêu cầu khởi kiện: Ngày 30/11/2021, nguyên đơn có đơn xin rút 01 phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc Công ty Phạm T chốt sổ bảo hiểm xã hội từ tháng 3/2014 đến tháng 5/2016. Đây là sự tự nguyện của nguyên đơn, căn cứ vào Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ 01 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét các hợp đồng lao động đã ký kết giữa ông Phạm Duy P và Công ty Phạm T và Công ty Phạm T BD: Căn cứ vào các bản hợp đồng mà nguyên đơn giao nộp có căn cứ xác định ông P ký kết các hợp đồng lao động với Công ty Phạm T và Công ty Phạm T BD thông qua người đại diện theo pháp luật của hai Công ty là bà Tôn Thanh T – chức vụ Giám đốc, các hợp đồng được giao kết bằng văn bản, dựa trên sự tự nguyện của các bên. Căn cứ các Điều 15, 16, 22 và 25 Bộ luật lao động năm 2012, Hội đồng xét xử xác định việc giao kết hợp đồng giữa các bên có hiệu lực pháp luật.

[2.2] Từ tháng 02/2018, ông P chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty Phạm T và đến tháng 02/2019, ông P chấm dứt hợp đồng với Công ty Phạm T BD. Việc chấm dứt hợp đồng lao động là tự nguyện. Tuy nhiên, Công ty Phạm Tôn và Công ty Phạm T BD không hoàn tất thủ tục chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông P làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng: Việc đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc là trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 19 và khoản 2 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội. Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động, xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 2 và khoản 5 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội. Theo tài liệu, chứng cứ nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội D có căn cứ xác định: Công ty Phạm T đã đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội cho ông Phạm Duy P từ tháng 9/2014 đến tháng 01/2018 nên hàng tháng phải có trách nhiệm đóng đủ bảo hiểm xã hội bắt buộc cho ông P. Công ty Phạm T trích tiền lương của ông P để đóng bảo hiểm xã hội nhưng không thực hiện đóng bảo hiểm xã hội cho ông đầy đủ là trái quy định của pháp luật. Ông P nghỉ việc tại Công ty Phạm T từ tháng 02/2018 nên thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho ông P phải tính đến hết tháng 01/2018. Công ty Phạm T BD đã đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội cho ông P từ tháng 02/2018 đến tháng 02/2019 nên hàng tháng phải có trách nhiệm đóng đủ bảo hiểm xã hội bắt buộc cho ông Phương. Công ty Phạm T BD đã trích tiền lương của ông P để đóng bảo hiểm xã hội nhưng không thực hiện đóng bảo hiểm xã hội cho ông đầy đủ là trái quy định của pháp luật. Ông P nghỉ việc tại Công ty Phạm T BD từ tháng 02/2019. Do đó thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho ông P phải tính đến hết tháng 02/2019. Phía bị đơn đã được Tòa án thông báo yêu cầu cung cấp chứng cứ, nhưng quá trình tố tụng không cung cấp tài liệu chứng cứ gì, do đó căn cứ vào trình bày của nguyên đơn, tài liệu chứng cứ do nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cung cấp để xem xét yêu cầu khởi kiện.

Như vậy, việc Công ty Phạm T và Công ty Phạm T BD trừ tiền lương của nguyên đơn hàng tháng nhưng không trích nộp tiền bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn và không chốt sổ bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn là vi phạm quy định pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn theo quy định tại khoản 2 và khoản 5 Điều 21 Luật bảo hiểm xã hội, khoản 2 và khoản 3 Điều 47 Bộ luật Lao động năm 2012 nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.

[4] Theo thông tin xác minh từ Sở Kế hoạch - Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh và Sở Kế hoạch - Đầu tư tỉnh Bình Dương thì Công ty Phạm T và Công ty Phạm T BD vẫn đăng ký hoạt động, không thay đổi địa chỉ trụ sở theo giấy đăng ký doanh nghiệp. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần triệu tập người đại diện theo pháp luật của Công ty Phạm T và Công ty Phạm T BD để làm việc, hòa giải, cung cấp chứng cứ liên quan đến yêu cầu khởi kiện của người lao động nhưng các Công ty đều vắng mặt và không có văn bản trình bày ý kiến, không cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu. Do đó, Công ty Phạm T và Công ty Phạm T BD phải chịu hậu quả pháp lý về sự vắng mặt của mình.

[5] Từ những phân tích trên có đủ sơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ý kiến đề xuất giải quyết vụ án của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật.

[6] Về án phí: Công ty Phạm T và Công ty Phạm T BD phải chịu án phí lao động sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 144, 147, 227, 228, 235, 238, 244, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ khoản 2 và khoản 3 Điều 47, Điều 186 Bộ luật Lao động năm 2012;

- Căn cứ Điều 18, Điều 19, khoản 2 và khoản 5 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Đình chỉ 01 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Duy P về việc buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Phạm T chốt sổ bảo hiểm xã hội từ tháng 3/2014 đến tháng 5/2016.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Duy P đối với bị đơn Công ty TNHH Phạm T và bị đơn Công ty TNHH Phạm T BD về việc “Tranh chấp bảo hiểm xã hội”.

- Buộc Công ty TNHH Phạm T phải đóng bảo hiểm xã hội cho ông Phạm Duy P từ tháng 6/2016 đến tháng 01/2018 và làm thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho ông Phạm Duy P từ tháng 6/2016 đến tháng 01/2018.

- Buộc Công ty TNHH Phạm T BD phải đóng bảo hiểm xã hội cho ông Phạm Duy P từ tháng 02/2018 đến tháng 02/2019 và làm thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho ông Phạm Duy P từ tháng 02/2018 đến tháng 02/2019.

2. Về án phí lao động sơ thẩm:

- Ông Phạm Duy P không phải chịu.

- Công ty TNHH Phạm T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

- Công ty TNHH Phạm T BD phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

3. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 20/2021/LĐ-ST

Số hiệu:20/2021/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 01/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về