Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 98/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 98/2022/HS-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 28 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 73/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa ra xét xử số 71/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Văn Đ, sinh năm 1982; Tên gọi khác: Không; Nơi sinh: Thái Bình; Giới tính: Nam; ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn N, xã L, huyện V, tỉnh H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; họ và tên bố: Vũ Ngọc D – sinh năm 1934; họ và tên mẹ: Trịnh Thị V – sinh năm 1949; gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ ba; họ và tên vợ: Nhâm Thị Q, sinh năm 1982; có 02 con, con lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Phạm Thị Ánh N, sinh năm 2002; ĐKHKTT: Thôn L, xã L, huyện V, tỉnh H– đã tử vong.

Đại diện hợp pháp của chị Phạm Thị Ánh N là: Ông Phạm Xuân C, sinh năm 1971 – là bố của chị N và bà Phạm Thị Đ, sinh năm 1981 – là mẹ của chị N; cùng đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn L, xã L, huyện V, tỉnh H(Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1.Chị Đỗ Như Q, sinh năm 2002; ĐKHKTT: Thôn L, xã L, huyện V, tỉnh H(có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng và Phát triển dịch vụ G; Trụ sở: Số X đường H, phường P, quận L, thành phố H. Đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Hoàng H, sinh năm 1986; (có đơn xin xét xử vắng mặt) .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bản thân Vũ Văn Đ có bằng lái xe ô tô hạng B2 hợp lệ. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 21/12/2021, Đ mượn xe ô tô BKS: 29C-955.97 của Công ty TNHH Đầu tư xây dựng và Phát triển dịch vụ G do Vũ Hoàng H, sinh: 1986 làm giám đốc. Đ điều khiển xe ô tô một mình từ khu Trung tâm thương mại Vincom Megamall thuộc khu đô thị Vinhomes Ocean Park theo hướng Kiêu Kỵ đi Thị trấn Trâu Quỳ với vận tốc khoảng 40-50 km/h để đến công trình mà Đ nhận sơn thuê. Khi đến ngã tư nơi giao nhau với đường Sao Biển 11, Đ đã không làm chủ tốc độ, thiếu chú ý quan sát tình trạng mặt đường nên đã để xe ô tô do Đ điều khiển đâm va vào phía bên phải xe máy điện biển số 89NĐ2073.19 do chị Phạm Thị Ánh N điều khiển đi bên trái, phía trước theo chiều đi của Đ từ đường Sao Biển 11 ra ngã tư, phía sau chở chị Đỗ Như Q dẫn đến xảy ra tai nạn giao thông. Hậu quả: chị N bị tử vong, chị Q bị thương.

Sau khi gây tại nạn Vũ Văn Đ đã đưa các nạn nhân đi cấp cứu và đến cơ quan Công an khai báo toàn bộ nội dung sự việc * Về khám nghiệm, giám định pháp y tử thi nạn nhân:

Tại kết luận giám định pháp y tử thi số 1261/GĐTT-TTPY ngày 28/12/2021 của Trung tâm pháp y - Sở y tế Hà Nội đối với nạn nhân Phạm Thị Ánh N kết luận (BL: 87-88):

Các vết tổn thương trên cơ thể:

- Đầu mặt + Sây sát da gò má phải kích thước 3cm x 3cm + Hai lỗ tai, hai lỗ mũi miệng khô + Cung răng chắc không gãy răng + Sờ nắn không thấy vỡ xương - Cổ vững - Ngực vững - Sây sát da vùng mạn sườn phải và mông phải kích thước 35cm x 15cm - Tay phải + Sây sát da mặt sau khuỷu tay và 1/3 trên cẳng tay kích thước 12cm x12cm + Sây sát, bầm tím da mu bàn tay và ngón tay kích thước 8cm x 6cm + Sờ nắn không thấy gãy xương - Tay trái:

+ Sây sát da mặt sau 1/3 dưới cánh tay kích thước 2cm x 01cm + Sây sát, bấm tím mặt trước ngoài cổ tay và bàn tay 9cm x 6cm + Sờ nắn không thấy gãy xương.

- Khung chậu vững, bộ phận sinh dục ngoài bình thường - Chân phải:

+ Sây sát da mặt mu các ngón chân kích thước 6cm x 1,5cm + Sây sát da mặt trước ngoài gối kích thước 4cm x 2cm + Sờ nắn không thấy gãy xương.

- Chân trái:

+ Sây sát, bầm tím da mặt trong cổ chân và bàn chân kích thước 16cm x 10cm + Sờ nắn không thấy gãy xương.

- Ngoài các dấu vết đã mô tả không phát hiện thương tích nào khác.

- Mổ tử thi:

+ Không mổ;

+ Gia đình cương quyết từ chối và ngăn cản nên không thể tiến hành mổ pháp y tử thi.

Nguyên nhân chết: Do không mổ tử thi nên không kết luận được nguyên nhân chết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm giữ nguyên cáo trạng số 88/CT-VKSGL ngày 31 tháng 5 năm 2022 truy tố Vũ Văn Đ về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của BLHS và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Vũ Văn Đ mức án từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là từ 24 đến 30 tháng tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Vũ Văn Đ cho Ủy ban nhân dân xã Long Hưng- huyện Văn Giang – tỉnh Hưng Yên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Không.

Về xử lý vật chứng:

- Đề nghị trả lại bị cáo Vũ Văn Đ 01 giấy phép lái xe số: 330193010006 do Sở Giao thông vận tải tỉnh Hưng Yên cấp cho Vũ Văn Đ ngày 03/6/2019.

Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo và mở lượng khoan hồng cho bị cáo, cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn. Bị cáo và đại diện gia đình người bị hại không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông, kết luận giám định phương tiện cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với nội dung bản cáo trạng.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 21/12/2021, bị cáo Vũ Văn Đ điều khiển xe ô tô BKS: 29C-955.97 (có giấy phép lái xe ô tô hợp lệ) đi trên đường Trung tâm thương mại Vincom Megamall thuộc khu đô thị Vinhomes Ocean Park theo hướng Kiêu Kỵ đi Thị trấn Trâu Quỳ. Khi đến ngã tư giao nhau giữa đường Sao Biển 11 với đường đi Trung tâm thương mại Vincom Megamall thuộc địa phận xã Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội, do thiếu chú ý quan sát tình trạng mặt đường, không giảm tốc độ an toàn nên Đ đã để xe ô tô do Đ điều khiển đâm va vào bên phải xe máy điện biển số: 89NĐ2- 073.19 do chị Phạm Thị Ánh N điều khiển đi bên trái, phía trước theo chiều đi của Đ từ đường Sao Biển 11 ra ngã tư, phía sau chở chị Đỗ Như Q. Hậu quả: chị N tử vong trên đường đ cấp cứu, chị Q bị thương.

[3] Căn cứ biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, kết luận giám định dấu vết va chạm, kết quả giám định và xác minh chất ma túy đối với Vũ Văn Đ, lời khai của bị cáo, lời khai của người làm chứng, thấy rằng: Trong vụ tai nạn giao thông trên lỗi và nguyên nhân gây ra vụ tai nạn giao thông thuộc về bị cáo Vũ Văn Đ do không làm chủ tốc độ, khi đi đến nơi có đường giao nhau không giảm tốc độ đến mức cần thiết để đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông khác vi phạm khoản 23 điều 8 Luật giao thông đường bộ, vi phạm khoản 3 Điều 5 Thông tư số 31/2019/TT-BGTVT. Nạn nhân Phạm Thị Ánh N cũng có một phần lỗi: điều khiển xe máy điện đến đoạn đường giao nhau đã không giảm tốc độ an toàn, thiếu chú ý quan sát, không nhường đường cho xe đi đến từ bên phải, vi phạm khoản 23 điều 8 và điều 24 Luật giao thông đường bộ, vi phạm khoản 3 Điều 5 Thông tư số 31/2019/TTBGTVT.

[4] Hành vi của bị cáo Vũ Văn Đ có đủ yếu tố cấu thành tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã trực tiếp xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại về tính mạng của người khác được Bộ luật Hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần phải nghiêm trị đối với bị cáo.

-Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[6] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi xảy ra tai nạn, bị cáo đã ra đầu thú, bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình nạn nhân; nhân thân của bị cáo chưa có tiền án-tiền sự; lỗi một phần do người bị hại; đại diện gia đình bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo; tại địa phương, bị cáo luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú; bố đẻ của bị cáo là ông Vũ Ngọc Dưỡng là bệnh binh và được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng ba; mẹ bị cáo là bà Trịnh Thị Vượng được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến Hạng Nhì; bị có nơi cư trú rõ ràng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[8] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đáng ra phải xử phạt bị cáo một mức tù trong khung hình phạt mới thỏa đáng. Song khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên mở lượng khoan hồng và xem xét cho bị cáo được áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội, chỉ cần xử phạt bị cáo một mức án tù dưới khung hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự để tạo điều kiện cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng đủ điều kiện cải tạo giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa tội phạm C.

[9]Về hình phạt bổ sung: Lẽ ra cần cấm bị cáo lái xe có thời hạn đối với bị cáo Vũ Văn Đ. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy bị cáo là lao động chính trong gia đình. Tại phiên tòa bị cáo cũng tỏ ra ăn năn, lấy sự việc lần này là bài học sâu sắc và cam đoan sẽ chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của luật giao thông và các quy tắc an toàn giao thông khi lái xe. Bản thân bị cáo sau khi gây ra tai nạn đến nay đã cố gắng khắc phục hậu quả, tậm lý đã ổn định. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy không cần áp dụng hình phạt bổ sung là cấm hành nghề lái xe đối với bị cáo.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, tuy nhiên về hình phạt có phần nghiêm khắc.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 22/12/2021, bị cáo Vũ Văn Đ đã bồi thường cho gia đình nạn nhân Phạm Thị Ánh N số tiền 400.000.000 đồng. Đại diện gia đình bị hại đã nhận tiền và không yêu cầu gì khác về bồi thường dân sự. Ngày 14/02/2022, Cơ quan CSĐT-Công an huyện Gia Lâm ra Quyết định trưng cầu giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể đối với nạn nhân Đỗ Như Q. Tuy nhiên, chị Q từ chối đi giám định. Ngày 06/01/2022, bị cáo Vũ Văn Đ đã bồi thường cho chị Q số tiền 80.000.000 đồng, chị Q đã nhận tiền và có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho Đ nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về trách nhiệm dân sự.

- Về xử lý tang tài vật:

[11] Đối với giấy phép lái xe số: 330193010006 do Sở Giao thông vận tải tỉnh Hưng Yên cấp cho Vũ Văn Đ ngày 03/6/2019, do Tòa án án không áp dụng hình phạt bổ sung là cấm hành nghề đối với bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo tại phiên tòa.

- Về các vấn đề khác:

[11] Đối với chiếc xe ôtô BKS: 29C-955.97, qua điều tra xác định chiếc xe trên thuộc sở hữu của Công ty TNHH Đầu tư xây dựng và Phát triển dịch vụ G. Ngày 29/3/2022, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Gia Lâm đã trả lại chiếc xe ôtô cho người đại diện theo pháp luật của công ty là anh Vũ Hoàng H. Anh Hải đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự.

[13] Đối với chiếc xe máy điện biển số 89NĐ2-073.19 thuộc quyền sở hữu của nạn nhân Phạm Thị Ánh N. Ngày 29/3/2022, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Gia Lâm đã giao lại chiếc xe cho ông Phạm Xuân C (là bố đẻ của chị N). Ông C đã nhận tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự.

Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm về trách nhiệm dân sự, về xử lý tang tài vật và về các vấn đề khác là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

- Về án phí:

[14] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Về quyền kháng cáo:

[15] Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn Đ phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Vũ Văn Đ 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Vũ Văn Đ cho Ủy ban nhân dân xã Long Hưng, huyện Văn Giang, thành phố Hà Nội giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không

4. Về xử lý tang tài vật : Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả lại ngay tại phiên tòa cho bị cáo Vũ Văn Đ 01 giấy phép lái xe số:

330193010006 do Sở Giao thông vận tải tỉnh Hưng Yên cấp cho Vũ Văn Đ ngày 03/6/2019 (Hiện có trong hồ sơ vụ án).

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

6. Quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người diện hợp pháp của bị hại có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền làm đơn kháng cáo bản án (phần trực tiếp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình) trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 98/2022/HS-ST

Số hiệu:98/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về