TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 94/2022/HSST NGÀY 12/09/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 12 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 98/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2022/QĐXXST- HS ngày 29 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Thanh B, sinh năm 1988, tại Lâm Đồng.
Nơi cư trú: Số 63/1, đường số 8, khu phố 1, phường L, thành phố T, thành phố H; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam.
Con ông Trần L, sinh năm 1953 và bà Đỗ Thị N, sinh năm 1959. Bị cáo là con út trong gia đình có 04 anh em. Có vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 1989. Bị cáo có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2017, nhỏ nhất sinh năm 2022; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú; tạm hoãn xuất cảnh (có mặt).
- Bị hại: Anh Trần Phước T, sinh năm 1998 (Đã chết).
- Đại diện của bị hại: Ông Trần Phước T, sinh năm 1968 và bà Bùi Thị Kim O, sinh năm 1973; Cùng địa chỉ: Số 252, ấp H xã H, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1989; Địa chỉ: Số 63/1, đường số 8, khu phố 1, phường L, thành phố T, thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người làm chứng:
1. Anh Lê Công S, sinh năm 1995.
Địa chỉ: Số 87/K2, ấp H, xã H, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt)
2. Anh Hồ Quốc B, sinh năm 1998.
Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 21 giờ 54 phút ngày 26/01/2022, Trần Thanh B (có giấy phép lái xe ô tô hạng B2 số 790150060769 do Sở giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 7/11/2016) điều khiển xe ô tô biển số 51A-060.61 lưu thông trên Quốc lộ 1A theo hướng Biên Hòa đi Long Khánh. Khi đến Km 1836+500 Quốc lộ 1A, thuộc địa phận ấp Hưng Thạnh, xã Hưng Lộc, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai thì B thấy phía trước cùng chiều có 01 xe ô tô di chuyển chậm nên B bật đèn xi nhan bên phải và cho xe chuyển từ làn đường ô tô sang làn đường hỗn hợp nhằm để vượt xe ô tô phía trước cùng chiều. Khi xe ô tô do B điều khiển vừa qua được nửa thân xe sang làn đường hỗn hợp thì lúc này có Trần Phước T, sinh năm 1998, ngụ tại ấp H, xã H, huyện Thống Nhất điều khiển xe mô tô biển số 60H5-119.01 chạy cùng chiều phía sau đến, do khoảng cách quá gần, không kịp lách tránh nên xe mô tô do T điều khiển đã va đụng vào mép đuôi phía sau bên phải xe ô tô do B điều khiển làm T và xe mô tô trượt ngã về phía trước. Hậu quả làm Trần Phước T chết tại chỗ.
Sau khi tai nạn xảy ra, Cơ quan điều tra Công an huyện Thống Nhất đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, đã xác định được như sau: Hiện trường vụ tai nạn nằm trên đoạn đường thẳng tại Km1836+500, Ql1A hướng Biên Hòa- Dầu Giây. Bề rộng mặt đường 14m được phân cách bằng dải phân cách giữa chia 02 chiều xe chạy, mỗi chiều rộng 7m và được phân thành 02 làn xe cơ giới, mỗi làn rộng 3,5m.
(1) Sau tai nạn xe ô tô 51A-060.61 dừng tại vạch phân làn, đầu xe hướng Dầu Giây, đuôi xe hướng Biên Hòa, bánh sau bên phải xe cách lề đường 2,8m, bánh trước bên phải cách lề đường 2,8m và cách đầu vết cày 2,8m, cách đầu nạn nhân 39,7m; cách xe mô tô 60H5-191.01 và cách trụ điện 163 là 32m.
(2) Vết cày xe mô tô 60H5-119.01 dài 37,3m, đầu vết cày cách lề đường 1,3m, đuôi vết cày sát chân phải nạn nhân.
(3) Trụ điện 163 cách lề đường 6,8m, cách bánh trước bên phải xe ô tô 51A-060.61 là 32m.
(4) Nạn nhân nam cao 1m70 nằm trong lề đất, đầu nạn nhân cách lề đường 5,2m hướng Dầu Giây, chân nạn nhân cách lề đường 6,9m hướng Biên Hòa. Nạn nhân trong tư thế nằm ngửa.
(5) Xe mô tô 60H5-119.01 sau tai nạn nằm ngả nghiêng trong phần lề đất theo chiều đi, đầu xe hướng Dầu Giây, đuôi xe hướng Biên Hòa, bánh sau xe cách đầu nạn nhân 12m và cách lề đường 5,4m, bánh trước xe cách lề đường 4,7m. Xe mô tô 60H5-119.01 cách bánh trước bên phải xe ô tô 51A-060.61 là 51,5m.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với nguyên nhân tử vong của Trần Phước Trí.
+ Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 033/TT/2022 ngày 03/3/2022 của Trung tâm Pháp y Sở y tế tỉnh Đồng Nai xác định nguyên nhân tử vong của Trần Phước T như sau: Chấn thương sọ não gây vỡ sọ phức tạp vùng trán, chảy máu nội sọ, dập thoát tổ chức não ra ngoài. Nồng độ cồn trong máu của Trần Phước Trí là 99,78 mg/100ml.
Nguyên nhân xảy ra tai nạn giao thông được xác định là do Trần Thanh B điều khiển xe ô tô biển số 51A-060.61 chuyển làn đường không đảm bảo an toàn. Về phía nạn nhân Trần Phước T cũng có lỗi là đã sử dụng rượu bia (có nồng độ cồn 99,78 mg/100/ml) và điều khiển xe mô tô biển số 60H5-119.01 không đi về bên phải làn đường hỗn hợp đối với phương tiện giao thông đường bộ có tốc độ thấp hơn.
Ngày 10/06/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Trần Thanh B về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ Luật hình sự. Quá trình điều tra bị cáo B đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, đã bồi thường khắc phục hậu quả và được đại diện gia đình người bị hại làm đơn bãi nại cho bị cáo.
Vật chứng thu giữ và xử lý vật chứng:
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã tiến hành tạm giữ 01 xe ô tô biển số 51A-060.61 và 01 xe mô tô biển số 60H5-119.01 cùng giấy tờ xe. Ngày 5/5/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại xe ô tô biển số 51A-060.61 và xe mô tô biển số 60H5-119.01 cùng giấy tờ xe cho chủ sở hữu.
Về dân sự: Bị cáo Trần Thanh B đã bồi thường số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng) cho gia đình nạn nhân Trần Phước T. Đại diện gia đình nạn nhân không có yêu cầu gì khác.
Cáo trạng số 66/CT.VKSTN-HS ngày 18/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Trần Thanh B về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai trình bày luận tội đối với bị cáo Trần Thanh B giữ nguyên quyết định như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Thanh B 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ. Ngoài ra còn đề nghị về vật chứng vụ án và án phí.
* Bị cáo B trình bày bào chữa và tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận về tội danh, chỉ xin hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ và hoàn cảnh gia đình của bị cáo.
* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo B thừa nhận hành vi của bản thân là sai, vi phạm pháp luật. Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất để có điều kiện làm việc, chăm lo cho các con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thống Nhất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[1.2] Đại diện hợp pháp của bị hại mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2] Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Trên cơ sở lời khai của bị cáo, căn cứ vào biên bản hiện trường, bản giám định pháp y, biên bản khám nghiệm các phương tiện liên quan, lời khai của người liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ xác định: Vào khoảng 21 giờ 54 phút ngày 26/01/2022, Trần Thanh B (có giấy phép lái xe ô tô hạng B2 số 790150060769 do Sở giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 7/11/2016) điều khiển xe ô tô biển số 51A-060.61 lưu thông trên Quốc lộ 1A theo hướng Biên Hòa đi Long Khánh. Khi đến Km 1836+500 Quốc lộ 1A, thuộc địa phận ấp Hưng Thạnh, xã Hưng Lộc, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai thì do điều khiển xe ô tô chuyển làn sang làn đường hỗn hợp không đảm bảo an toàn nên xe ô tô do B điều khiển đã bị xe mô tô biển số 60H5-119.01 do Trần Phước T điều khiển chạy phía sau cùng chiều đến đụng vào mép đuôi bên phải xe ô tô 51A-060.61 của Trần Thanh B. Hậu quả làm cho Trần Phước T chết.
Hành vi trên của Trần Thanh B đã vi phạm khoản 1 Điều 13 của Luật giao thông đường bộ gây hậu quả chết người nên đã phạm vào tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Khoản 1 Điều 13 Luật giao thông đường bộ quy định:
1. Trên đường có nhiều làn đường cho xe đi cùng chiều được phân biệt bằng vạch kẻ phân làn đường, người điều khiển phương tiện phải cho xe đi trong một làn đường và chỉ được chuyển làn đường ở những nơi cho phép; khi chuyển làn đường phải có tín hiệu báo trước và phải đảm bảo an toàn.
Điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết người.
… Như vậy, cáo trạng số 66/CT.VKSTN-HS ngày 19/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Trần Thanh Bảo là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Bị cáo điều khiển phương tiện tham gia giao thông chuyển hướng thiếu quan sát, không đảm bảo an toàn đã gây thiệt hại tính mạng cho người khác, vi phạm vào khoản 1 Điều 13 Luật Giao thông đường bộ nên phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định.
Xét thấy tình hình tai nạn giao thông xảy ra tại địa bàn huyện đặc biệt là trên Quốc lộ 1A trong thời gian qua có luôn diễn biến phức tạp, nên hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm mà hành vi của bị cáo đã gây ra nhằm cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp không có tình tiết tăng nặng.
Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã chủ động bồi thường, khắc phục hậu quả thiệt hại cho gia đình bị hại, nguyên nhân của vụ tai nạn có một phần lỗi của bị hại, bị hại sử dụng rượu bia (có nồng độ cồn 99,78mg/100ml) và điều khiển xe mô tô biển số 60H5 – 119.01 không đi bên phải làn đường hỗn hợp đối với phương tiện giao thông đường bộ có tốc độ thấp hơn. Đại diện hợp pháp của bị hại có “Đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự” và xin giảm nhẹ cho bị cáo B. Bị cáo có nhân thân tốt, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú. Bị cáo thuộc trường hợp gia đình có công với cách mạng, bà nội bị cáo là cụ Nguyễn Thị H nhiều lần được tặng thưởng Huy chương kháng chiến và giấy khen vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Căn cứ quy định điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo Bảo một phần khi quyết định hình phạt.
Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo Bảo có nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, bản thân luôn chấp hành tốt các quy định của pháp luật được chính quyền địa phương nơi cư trú xác nhận. Nhận thấy, việc không cách ly bị cáo để cải tạo không gây nguy hiểm cho xã hội, do vậy Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự để xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với bị cáo, giao chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú quản lý, giám sát đối với bị cáo cũng đủ nghiêm, tạo điều kiện cho bị cáo hưởng sự khoan hồng của pháp luật, cải tạo thành công dân biết tuân thủ pháp luật.
[4] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Trong quá trình điều tra, đại diện hợp pháp của các bị hại đã nhận tiền bồi thường về dân sự là 150.000.000 đồng của gia đình bị cáo Bảo. Do đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu gì về trách nhiệm bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Đối với xe ô tô biển số 51A-060.61 và 01 xe mô tô biển số 60H5- 119.01 cùng giấy tờ xe. Ngày 05/5/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại xe ô tô biển số 51A- 060.61 và giấy tờ xe cho chị Nguyễn Thị T và xe mô tô biển số 60H5-119.01 cùng giấy tờ xe cho đại diện hợp pháp của bị hại là đúng quy định pháp luật.
[6] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Trần Thanh Bảo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
* Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận, riêng quan điểm đề nghị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo là chưa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 260; điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự;
Tuyên bố: Bị cáo Trần Thanh B phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Xử phạt: Bị cáo Trần Thanh B 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (12/9/2022).
Giao bị cáo Trần Thanh B cho Ủy ban nhân dân phường L, thành phố T, thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách: “Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.
2. Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46 của Bộ luật Hình sự, tuyên trả cho bị cáo B 01 giấy phép lái xe hạng B2 Số/No 790150060769 mang tên Trần Thanh B do sở giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 07/11/2016 (hiện đang lưu giữ trong hồ sơ vụ án).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:
Bị cáo Trần Thanh B phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án theo quy định.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 94/2022/HSST
Số hiệu: | 94/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về