Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 70/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 70/2022/HS-ST NGÀY 19/09/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 19 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vương Đức K, tên gọi khác: Không, sinh ngày 24/10/1976, tại thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang; Trú tại: Tổ 10, phường Đ, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vương Đình Th và bà Vũ Thị Đ (đều đã chết); anh chị em ruột có 04 người, bị cáo là con thứ ba; vợ: Hoàng Thị Kim Ph, sinh năm 1980; con: Có 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

- Người bị hại:

1. Ông Hà Thoại Kh, sinh năm 1960; trú tại: Thôn 61, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, có mặt.

2. Anh Hà Văn T, sinh năm 1980; trú tại: Thôn Tháng 10, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, có mặt.

3. Hạt 5 Quốc lộ 2 - Công ty đường bộ 232; địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn T, huyện Hàm Y, tỉnh Tuyên Quang.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Lan A, chức vụ: Hạt trưởng, vắng mặt(có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Công ty cổ phần lâm sản Tuyên Quang: địa chỉ: Số 87, đường Chiến Thắng Sông Lô, tổ 1 phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Tô Thanh T2 - chức vụ: Giám đốc.

- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Vĩnh H, sinh năm 1975; địa chỉ: Tổ 5, phường N, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vương Đức K, sinh năm 1976, trú tại tổ 10, phường Đ, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang (có Giấy phép lái xe theo quy định, có hợp đồng lái xe thuê với ông Tô Thanh T2, sinh năm 1992, trú tại tổ 13 phường Ph, Thành phố T là Giám đốc Công ty cổ phần lâm sản Tuyên Quang). Khoảng 13 giờ ngày 17/11/2021 K điều khiển xe ô tô đầu kéo, BKS 22C-072.00 kéo theo Sơ mi rơ móoc BKS 22R-000.93 từ huyện B, tỉnh Hà Giang về Công ty cổ phần lâm sản Tuyên Quang, địa chỉ: phường T, thành phố Tuyên Quang (trước khi điều khiển xe ô tô đầu kéo Kiên đã sử dụng trái phép chất ma túy - vi phạm khoản 7 Điều 8 Luật giao thông đường bộ). Khi đến đoạn đường Km 195+730 Quốc Lộ 2, thuộc địa phận thôn Km61, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang do không chấp hành chỉ dẫn của hệ thống báo hiệu đường bộ (biển báo chỗ ngoặt nguy hiểm vòng bên phải) - Vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật Giao thông đường bộ; Không giảm tốc độ khi có báo hiệu cảnh báo nguy hiểm, trời mưa, mặt đường trơn trượt (vi phạm khoản 1, khoản 11 Điều 5 Thông tư số 31/2019/TT- BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ giao thông vận tải, quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ) Kiên đã điều khiển xe ô tô đầu kéo đâm vào cột tiêu hạn định lề đường và cột biển báo hiệu giao thông ở phía bên phải đường và đâm tiếp vào cửa hàng của gia đình ông Hà Thoại Kh, sinh năm 1960, trú tại thôn Km 61, xã Y, huyện H ở phía bên phải đường theo hướng Hà Giang đi Tuyên Quang làm ông Kh bị cuốn vào gầm xe. Hậu quả: Cột tiêu hạn định lề đường và cột biển báo hiệu giao thông do Công ty cổ phần đường bộ 232 quản lý bị hư hỏng. Nhiều tài sản của ông Kh và chiếc xe mô tô BKS 18B1 - 984.99 của anh Hà Văn T, sinh năm 1980, trú tại thôn Tháng 10, xã Y, huyện H bị hư hỏng, ông Kh bị thương được đưa đến bệnh viện điều trị.

Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 17/11/2021 xác định: Điều kiện thời tiết: Trời mưa phùn, mặt đường ướt. Khám nghiệm theo hướng Hà Giang - Hà Nội. Hiện trường xảy ra tai nạn là đoạn đường dải nhựa áp phan, hơi cua sang trái về phía Hà Nội, mặt đường phẳng, tầm nhìn trên 80m, mặt đường rộng 07m, ở giữa có vạch sơn ngắt quãng màu vàng và các đinh phản quang phân chia chiều đường trái và phải. Các dấu vết và phương tiện được đặt số thứ tự theo số tự nhiên từ 01 đến 06 đều nằm bên phần đường bên phải theo hướng khám nghiệm. Cách vị trí số 01 (vết dằn lốp kép) 86,10m về phía Hà Giang có biển cảnh báo chỗ ngoặt nguy hiểm vòng bên phải.

Tiến hành xét nghiệm nước tiểu tìm chất ma túy trong cơ thể của Vương Đức Kiên, kết quả dương tính (có chất ma túy trong cơ thể).

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 45/2022/TgT ngày 29/3/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Tuyên Quang đối với thương tích của ông Hà Thoại Kh, kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Chấn động não điều trị ổn định: 01%;

- Gẫy xương chính mũi không ảnh hưởng đến chức năng thở: 07%;

- Gãy gai sau đốt sống C4 (vỡ mỏm vai): 06%;

- Gãy gai ngang bên phải đốt sống C7 (vỡ mỏm bên): 03%;

- Đụng dập tủy cổ C3C4 (tổn thương tủy hồi phục gần như hoàn toàn):

07%;

- Gãy liên mấu chuyển đùi trái (vỡ mấu chuyển lớn): 03%; vỡ bờ xương vị trí ngành chậu mu bên phải: 01%; vỡ bong mảnh xương vị trí ngành ngồi mu bên trái: 02%;

- Gãy đầu dưới xương mác (vỡ mắt cá ngoài): 03%;

- Sẹo phần mềm vùng hông trái: 01%; sẹo mặt ngoài cổ chân và mu chân phải: 03%; 3 sẹo mu chân (vết trích rạch da giải pháp) mỗi sẹo 01%; sẹo mặt trong 1/3 dưới cẳng chân phải: 02%; 3 sẹo mặt trong gót phải, dưới mắt cá trong mỗi sẹo 01%;

- Thoái hóa thân các đốt sống C4, C5, C6 là bệnh lý.

2. Cơ chế vật gây thương tích:

Thương tích như trên là do vật tày tác động trực tiếp gây nên.

3. Căn cứ Bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của ông Hà Thoại Kh là: 37% (Ba mươi bảy phần trăm) theo phương pháp cộng tại Thông tư.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 17/KLĐGTS, ngày 09/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hàm Yên kết luận: Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại tại thời điểm ngày 17/11/2021 là 107.503.836 đồng (Một trăm linh bảy triệu, năm trăm linh ba nghìn, tám trăm ba mươi sáu đồng).Trong đó thiệt hại về tài sản của ông Hà Thoại Kh là 106.974.156 đồng, của ông Hà Văn T là 171.680 đồng, của Công ty cổ phần 232 là 358.000 đồng.

Cáo trạng số 63/CT-VKSHY ngày 30/8/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố Vương Đức K về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Vương Đức K về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vương Đức K từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại ông Hà Thoại Kh trước khi mở phiên tòa và ghi nhận trong bản án.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận về hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, bị cáo không có ý kiến tranh luận đối với luận tội của đại diện Viện kiểm sát; bị cáo nhất trí thỏa thuận bồi thường dân sự với người bị hại trước khi mở phiên tòa; bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và cộng đồng.

Người bị hại ông Hà Thoại Kh nhất trí thỏa thuận đối với bị cáo về trách nhiệm bồi thường dân sự trước khi mở phiên tòa và đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận trong bản án.

Về trách nhiệm hình sự người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo ở mức thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, thực hiện việc xét hỏi, tranh tụng đúng quy định tại các điều 289, 306, 315, 320, 321, 322 của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa; căn cứ biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, kết luận định giá tài sản, kết luận giám định pháp y về thương tích, lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, cũng như các tài tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Các tài liệu, chứng cứ hoàn toàn phù hợp và đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 17/11/2021 tại đoạn đường Km 195+730 Quốc Lộ 2, thuộc địa phận thôn Km61, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, Vương Đức K, trú tại tổ 10, phường Đội Cấn, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (trước đó đã sử dụng chất ma túy - vi phạm khoản 7 Điều 8 Luật giao thông đường bộ) đã có hành vi điều khiển xe ô tô đầu kéo, BKS 22C-072.00 kéo theo Sơ mi rơ móoc BKS 22R-000.93 tham gia giao thông đường bộ, do không chấp hành chỉ dẫn của hệ thống báo hiệu đường bộ (biển báo chỗ ngoặt nguy hiểm vòng bên phải) - Vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật Giao thông đường bộ; Không giảm tốc độ khi có báo hiệu cảnh báo nguy hiểm, trời mưa, mặt đường trơn trượt (vi phạm khoản 1, khoản 11 Điều 5 Thông tư số 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ giao thông vận tải, quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ) đã điều khiển xe đâm vào cột tiêu hạn định lề đường và cột biển báo hiệu giao thông do Công ty cổ phần đường bộ 232 quản lý và đâm tiếp vào cửa hàng của gia đình ông Hà Thoại Kh, sinh năm 1960, trú tại thôn Km 61, xã Y, huyện H gây hư hỏng nhiều tài sản của ông Kh và chiếc xe mô tô BKS 18B1 - 984.99 của anh Hà Văn T, sinh năm 1980, trú tại thôn Tháng 10, xã Y, huyện H. Ông Kh bị thương tích với tỷ lệ 37% (ba mươi bảy phần trăm). Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 107.503.836 đồng (một trăm linh bảy triệu, năm trăm linh ba nghìn, tám trăm ba mươi sáu đồng). Trong đó thiệt hại về tài sản của ông Hà Thoại Kh là 106.974.156 đồng, của ông Hà Văn T là 171.680 đồng, của Công ty cổ phần 232 là 358.000 đồng.

Hành vi không làm chủ tốc độ khi tham gia giao thông mà bị cáo đã thực hiện là vi phạm các quy định của pháp luật khi tham gia giao thông đường bộ gây tai nạn dẫn đến hậu quả nạn nhân bị tổn hại 37% và thiệt hại nhiều tài sản, đã phạm vào tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo như nội dung Cáo trạng là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan.

Hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe, tài sản của người bị hại, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương nơi xẩy ra vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức pháp luật, đã có Giấy phép lái xe, nhận thức được rằng khi tham gia giao thông phải tuân thủ đầy đủ các quy tắc tham gia giao thông, đặc biệt là đối với phương tiện vận tải có trọng tải lớn và các quy định của pháp luật. Việc để xảy ra tai nạn giao thông dẫn đến thương tích của người bị hại là ngoài ý muốn của bị cáo nhưng vẫn xuất phát từ ý thức chủ quan, sự cẩu thả của bị cáo khi điều khiển phương tiện khi tham gia giao thông, không làm chủ tốc độ, không làm chủ được tình huống dẫn đến gây tai nạn giao thông làm cho bị hại bị thương tích 37% và thiệt hại nhiều tài sản khác. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo xét thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mới có đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Từ giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường được 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng), tại phiên tòa sơ thẩm người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có bố đẻ là ông Vương Đình Th được tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì và mẹ đẻ là bà Vũ Thị Đ được tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất. Tại phiên tòa sơ thẩm người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, khi lượng hình cần áp dụng cho bị cáo.

Hình phạt và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là phù hợp nên cần chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tại cơ quan điều tra bị cáo đã bồi thường cho ông Kh số tiền 15.000.000 đồng; Công ty cổ phần lâm sản Tuyên Quang hỗ trợ ông Kh 10.000.000 đồng. Trước khi mở phiên tòa giữa bị cáo và bị hại đã thỏa thuận với nhau về phần bồi thường dân sự. Bị cáo, bị hại cùng đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường dân sự, trong đó thiệt hại về tài sản là 106.974.000đ, thiệt hại về sức khỏe là 124.815.000đ, đã bồi thường trước 25.000.000đ, còn phải bồi thường tiếp 99.815.000đ. Tổng cộng hai khoản bị cáo phải bồi thường là 206.789.000đ (hai trăm linh sáu triệu bảy trăm tám mươi chín nghìn đồng).

Xét thấy sự thỏa thuận trên là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại về trách nhiệm bồi thường dân sự.

Đối với phần thiệt hại về tài sản của anh Hà Văn T, bị cáo, bị hại T đã thỏa thuận bồi thường xong cho nhau, tại phiên tòa bị hại T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với phần thiệt hại về tài sản của Hạt 5, Công ty cổ phần đường bộ 232, tại gia đoạn điều tra đại diện bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường, tại phiên tòa đại diện bị hại vắng mặt, đơn đề nghị xét xử vắng mặt không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tạm giữ:

- 01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 22C - 072.00 kéo theo Sơmirơmoóc biển kiểm soát 22R - 000.93; 02 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện xe ô tô; 02 giấy biên nhận thế chấp của ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, chi nhánh Tuyên Quang (Ngày 15/7/2022 Cơ quan điều tra đã trả cho đại diện chủ sở hữu hợp pháp).

- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 23K1-7419, nhãn hiệu: Yamaha, màu sơn: Đen, xe cũ đã qua sử dụng; 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 22H1 – 3376, nhãn hiệu: Dream, màu sơn: Tím, xe cũ đã qua sử dụng (Ngày 03/6/2022 Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu hợp pháp ông Hà Thoại Kh).

- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 18B1 - 984.99, loại xe: Wave, nhãn hiệu: Honda, màu sơn: Xanh Đen Bạc, xe cũ đã qua sử dụng (Ngày 03/6/2022 Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu hợp pháp Hà Văn T).

Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết phần vật chứng đối với bị cáo trong phần quyết định của bản án.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định; bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1.Về trách nhiệm hình sự, hình phạt:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Vương Đức K phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt: Bị cáo Vương Đức K 03 năm 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành bản án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 585, 589, 590, 601 của Bộ luật dân sự. Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Vương Đức K và bị hại ông Hà Thoại Kh cụ thể như sau:

+ Bị cáo có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại về tài sản cho ông Hà Thoại Kh số tiền 106.974.000đ (một trăm linh sáu triệu chín trăm bảy mươi tư nghìn đồng).

+ Bị cáo có trách nhiệm bồi thường ông Hà Thoại Kh các chi phí cứu chữa, điều trị thương tích, tiền thuê xe, tiền mất thu nhập của ông Kh, tiền mất thu nhập của người chăm sóc, bồi dưỡng tổn thất tinh thần, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe, chi phí giám định sức khỏe tổng số tiền 124.815.000đ, đã bồi thường được 25.000.000đ, còn phải bồi thường tiếp số tiền 99.815.000đ.

Tổng cộng hai khoản bị cáo Vương Đức K phải bồi thường cho bị hại Hà Thoại Kh số tiền là 206.789.000đ (hai trăm linh sáu triệu bảy trăm tám mươi chín nghìn đồng).

Khoản tiền phải trả, kể từ khi ông Hà Thoại Kh có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Vương Đức K chậm trả thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 70/2022/HS-ST

Số hiệu:70/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về