TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 47/2021/HS-PT NGÀY 17/06/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 17 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 25/2021/TLPT-HS ngày 03 tháng 3 năm 2021, đối với bị cáo Trương Trọng K do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HSST ngày 20 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Bị cáo có kháng cáo: Trương Trọng K, sinh ngày 29/7/1990 tại xã Q, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn K, xã Q, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Trương Trọng Q và bà Dương Thị V; có vợ là Lương Thị T và có 02 con (lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2013); tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trương Trọng K là chủ xưởng sửa chữa ô tô “T” tại thôn Đ, xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc. Khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 18/9/2020, anh Nguyễn Anh T (là lái xe của Công ty S có trụ sở tại xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang) điều khiển xe ô tô đầu kéo Biển kiểm soát 22C-0xx.xx kéo theo rơ móc Biển kiểm soát 22R-00x.xx đến sửa chữa cánh cửa và chắn bùn đầu xe ô tô tại xưởng của K. Khi đến, anh T điều khiển xe ô tô đầu kéo vào trong xưởng, đầu xe hướng phía trong, đuôi xe hướng ra ngoài quốc lộ 2C và cách mép đường khoảng 5-6m rồi để chìa khóa trên xe và giao xe cho K để tiện việc sửa chữa và khóa cửa xe, hẹn sáng hôm sau sẽ đến lấy xe. Đến khoảng 20 giờ 20 phút cùng ngày, do vướng đuôi xe ô tô không đóng được cửa xưởng nên mặc dù không có giấy phép lái xe ô tô theo quy định và không được anh T cho phép nhưng K tự nổ máy điều khiển xe đầu kéo trên lùi ra khỏi quán để cất xe ở ô đất trống bên cạnh xưởng. Trước khi di chuyển, K bật đèn xi nhan đôi để báo hiệu rồi lùi xe từ từ ra đường quốc lộ 2C phần đuôi xe hơi chếch về hướng xã B, đồng thời quan sát qua gương chiếu hậu xe ô tô nhưng không quan sát được phương tiện di chuyển trên đường quốc lộ 2C do tầm nhìn bị vướng nhà xưởng. Khi phần đuôi xe ô tô do K điều khiển lùi qua mép đường quốc lộ 2C khoảng 1m và K đang quan sát gương chiếu hậu bên trái thì nghe thấy tiếng va chạm mạnh ở phần đuôi xe rơ móc bên phải, K xuống xe phát hiện xe mô tô Biển kiểm soát 88F2-xxxx do anh Nguyễn Văn T1 điều khiển đổ ngã trên mặt đường, anh T1 bị thương bất tỉnh, K lên xe điều khiển xe ô tô tiến về phía trước (hướng vào xưởng) khoảng 2m rồi đỗ lại và gọi xe taxi đưa anh T1 đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc. Do thương tích nặng nên khoảng 01 giờ ngày 19/9/2020 anh T1 tử vong, xe mô tô bị hư hỏng.
Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 107/TT ngày 28/9/2020 của Trung tâm pháp y Sở y tế Vĩnh Phúc kết luận: Nguyên nhân chết của anh Nguyễn Văn T1: “Chấn thương sọ não nặng không phục hồi/ Gãy dời kín 1/3 dưới xương đùi bên phải.” Tại Kết luận giám định số 2486 ngày 01/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:“ Mẫu máu thu của tử thi Nguyễn Văn T1… giám định có cồn (Ethanol), nồng độ cồn (Ethanol) trong máu là 259,2mg/100ml” Định giá tài sản: Tại Kết luận về việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 441/KL-HĐĐG ngày 28/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lập Thạch kết luận: Xe Mô tô biển kiểm sát: 88F2-xxxx, bị hư hỏng được định giá: 1.650.000 đồng; 01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm sát: 22C- 0xx.xx kéo theo rơ móoc biển kiểm sát: 22R-00x.xx bị hư hỏng được định giá:
100.000 đồng.
Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Trương Trọng K đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền là 150.000.000 đồng, người đại diện hợp pháp của bị hại là chị Khổng Thị T2 (vợ anh T1) đã nhận đủ số tiền trên, tự khắc phục sửa chữa xe mô tô Biển kiểm soát 88F2-xxxx, không yêu cầu bị cáo K phải bồi thường gì khác và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho K.
Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2021/HSST ngày 20 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Trương Trọng K phạm tội“Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trương Trọng K 03 (Ba) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 29 tháng 01 năm 2021, bị cáo Trương Trọng K có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Lý do kháng cáo: Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình, đang nuôi bố mẹ già thường xuyên đau ốm.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc phát biểu quan điểm và đề nghị: Quá trình xét xử phúc thẩm bị cáo xuất trình tài liệu về việc bị cáo có đã có có công trong việc giúp đỡ người dân phát hiện lũ quét, và giúp di dời tài sản để tránh được thiệt hại về người và tài sản có xác nhận của chính quyền địa phương; đồng thời địa phương xác nhận gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không phải áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Trọng K, sửa bản án sơ thẩm theo hướng xử phạt bị cáo 03 năm tù, cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách 05 năm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Trương Trọng K làm trong hạn luật định, hợp lệ được xem xét giải quyết.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì, do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Về nội dung: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm bị cáo Trương Trọng K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, các biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện vụ tai nạn giao thông, các kết luận giám định pháp y về tử thi người bị hại… và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được cơ quan điều tra thu thập khách quan, đúng pháp luật. Từ đó có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 18/9/2020, tại xưởng sửa chữa ô tô “T” thuộc thôn Đ, xã H, huyện L, mặc dù không có giấy phép lái xe ô tô và không được chủ xe cho phép nhưng Trương Trọng K đã tự ý điều khiển xe ô tô đầu kéo Biển kiểm soát: 22C-0xx.xx kéo theo rơ moóc Biển kiểm soát: 22R-00x.xx của anh Nguyễn Anh T từ trong xưởng lùi ra đường quốc lộ 2C để cất xe. Do bị khuất tầm nhìn và không có biện pháp cảnh báo an toàn nên khi vừa lùi đuôi xe ô tô ra đường quốc lộ 2C khoảng 1m thì anh Nguyễn Văn T1 điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 88F2-xxxx hướng từ xã B đi xã Hợp Lý đâm vào phần đuôi xe bên phải rơ móoc Biển kiểm soát: 22R-00x.xx. Hậu quả: Anh T1 bị thương nặng và tử vong, xe máy bị hư hỏng.
[3] Với hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trương Trọng K về tội “ Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.
[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo Trương Trọng K, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây ra thiệt hại về tính mạng của người khác, làm ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình bị hại, gây hoang mang cho những người tham gia giao thông. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; sau khi gây tại nạn đã đưa người bị hại đi cứu chữa; tự nguyện bồi thường thiệt hại; đại diện bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Trong vụ án này, xét về mức độ lỗi thì bị cáo có lỗi chính là điều khiển xe ô tô không có giấy phép lái xe theo quy định, lùi xe ô tô không đảm bảo an toàn. Nhưng bản thân bị hại cũng có lỗi không chú ý quan sát (không thấy được tín hiệu đèn xi nhan đôi báo hiệu lùi xe của bị cáo); đồng thời bị hại tham gia giao thông khi nồng độ cồn (Ethanol) trong máu là 259,2mg/100ml nên đã vi phạm khoản 8 Điều 8 của Luật giao thông đường bộ quy định về các hành vi bị cấm, cụ thể:
“Điều 8. Các hành vi bị nghiêm cấm ...8. Người lái xe đang điều khiển xe trên đường mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu...”
Vì vậy, bị hại cũng có lỗi một phần. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm tài liệu về việc bị cáo có công trong việc giúp đỡ gia đình ông Hà Trọng G thuộc khu Đ, thôn S, xã Q phát hiện lũ quét, giúp gia đình ông G kịp thời di dời tài sản để tránh được thiệt hại về người và tài sản có xác nhận của chính quyền địa phương; đồng thời địa phương xác nhận gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính, trực tiếp chăm sóc bố mẹ già thường xuyên đau ốm, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do bị cáo được áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào nên đáng được hưởng khoan hồng của pháp luật.Vì vậy, chỉ cần phạt bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt và không cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại trại giam mà cho bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách và giao cho chính quyền địa phương nơi thường trú giám sát, giáo dục như đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm là đủ tác dụng để răn đe, phòng ngừa chung cũng như tạo điều kiện giúp bị cáo có cơ hội tự cải tạo, sửa chữa sai lầm. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị cáo Trương Trọng K, giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị cáo Trương Trọng K. Sửa bản án sơ thẩm số 03/2021/HSST ngày 20 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc về hình phạt.
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 260; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử phạt bị cáo Trương Trọng K 03 (Ba) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 (Năm) năm, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Trương Trọng K cho Ủy ban nhân dân xã Q, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về án phí: Bị cáo Trương Trọng K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 47/2021/HS-PT
Số hiệu: | 47/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về