Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 41/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ NĂM, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 41/2023/HS-ST NGÀY 06/12/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 06 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 35/2023/TLST- HS, ngày 04 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2023/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Trương Vủ K, sinh ngày 15/8/1990, tại huyện T, tỉnh Cà Mau (bị cáo có mặt tại phiên tòa). Nơi cư trú: ấp T, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Minh A, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1972; Anh, em ruột: có 02 người; Vợ tên Nguyễn Kiều D; con: 01 người; tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 10/6/2023 cho đến nay.

- Bị hại: Ông Trần Bé T, sinh năm 1958 (chết).

Người đại diện hợp pháp của bị hại T:

1. Bà Võ Thị Tuyết M, sinh năm 1960 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp T, xã M, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

2. Bà Trần Bích H, sinh năm 1979 (Có mặt).

Địa chỉ: ấp M, xã M, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng.

3. Bà Trần Thanh T, sinh năm 1981 (Vắng mặt).

Địa chỉ: ấp N, xã M, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

4. Ông Trần Chí H, sinh năm 1984 (Có mặt) Địa chỉ: ấp T, xã M, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

5. Bà Trần Thanh T, sinh năm 1988 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp T, xã M, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

6. Bà Trần Thúy K, sinh năm 1990 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp T, xã M, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

7. Bà Trần Thúy E, sinh năm 1996 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp T, xã C, huyện V, tỉnh Bạc Liêu.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Phan Văn Đ, sinh năm 1984 (Có mặt) Địa chỉ: ấp R, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

- Người làm chứng:

1. Ông Quách Hồng N, sinh năm 1984 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp T, xã C, huyện V, tỉnh Bạc Liêu.

2. Bà Lý Ngọc H, sinh năm 1958 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp T, xã C, huyện V, tỉnh Bạc Liêu.

3. Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1969 (Vắng mặt) Địa chỉ: khóm B, phường M, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 03 giờ ngày 14/4/2023, bị cáo Trương Vủ K điều khiển xe ô tô tải biển số 69C-xxxxx xuất phát từ thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau chở mực khô đi giao cho khách hàng thuộc khu vực thành phố H, khi K điều khiển xe đến địa phận thị xã N và ghé vào Cây xăng số 15, thuộc khóm B, phường M, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng để đổ dầu là khoảng 06 giờ cùng ngày. Sau khi đổ dầu xong, Trương Vủ K lên xe điều khiển lùi về sau khoảng 10 mét (để có khoảng cách điều khiển xe đi tới về hướng PH đi thành phố H) rồi tiếp tục cài số 2 điều khiển xe đi tới khoảng 02 - 03 mét, do không quan sát phía trước dẫn đến phần đầu xe bên phải va chạm vào ông Trần Bé T đang ngồi trên sân bê tông trước cây xăng làm ông T té ngã xuống sân và bị bánh xe trước bên phải của K điều khiển cán qua 02 chân của ông T gây ra thương tích. Thời điểm này, Trương Vủ K nghe có tiếng người dân truy hô “cán ông già”, K liền dừng xe lại và bước xuống xe nhìn thấy 02 chân của ông T bị thương tích nặng. Sau đó, ông T được đưa đến Trung tâm y tế thị xã N cấp cứu, do 02 chân bị thương tích nặng nên được chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Sóc Trăng và tiếp tục được chuyển đến Bệnh viện đa khoa Trung Ương Cần Thơ cấp cứu, điều trị. Đến ngày 21/4/2023 ông Trần Bé T tử vong.

Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y tử thi, số: 103/KLGĐTT-KTHS, ngày 19 tháng 5 năm 2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng, kết luận: Trên cơ thể có nhiều vết thương; tổ chức dưới lớp da mỏm cụt bị hoại tử có màu xám nhạt; phần xương đùi bên phải ở đoạn 1/3 dưới bị cắt rời. Nguyên nhân chết của ông Trần Bé T: Hoại tử mỏm cụt/Nhiễm trùng huyết.

Tại Cáo trạng số 40/CT-VKSNN ngày 02 tháng 10 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm truy tố bị cáo Trương Vủ K về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên Cáo trạng truy tố bị cáo Trương Vủ K phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ”; Đồng thời đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị xử phạt bị cáo K từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về xử lý vật chứng: Trả cho bị cáo 01 giấy phép lái xe hạng C số 96017700xxxx tên Trương Vủ K.

Bị cáo K thừa nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Người đại diện hợp pháp cho bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.

[2]. Đối với việc vắng mặt của người đại diện hợp pháp cho bị hại bà Võ Thị Tuyết M, bà Trần Thanh T, bà Trần Thanh T, bà Trần Thúy K, bà Trần Thúy E;

người làm chứng ông Quách Hồng N, bà Lý Ngọc H, bà Nguyễn Thị B, xét thấy những này đã có lời khai làm rõ các tình tiết vụ án, việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự để xét xử vắng mặt những người nêu trên.

[3]. Tại phiên tòa bị cáo Trương Vủ K khai nhận:

Vào khoảng 03 giờ ngày 14/4/2023, bị cáo Trương Vủ K điều khiển xe ô tô tải biển số 69C-xxxxx xuất phát từ thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau chở mực khô đi giao cho khách hàng thuộc khu vực thành phố H, khi K điều khiển xe đến địa phận thị xã N và ghé vào Cây xăng số 15, thuộc khóm B, phường M, thị xã N để đổ dầu là khoảng 06 giờ cùng ngày. Sau khi đổ dầu xong, Trương Vủ K lên xe điều khiển lùi về sau khoảng 10 mét rồi tiếp tục cài số 2 điều khiển xe đi tới khoảng 02 - 03 mét, do không quan sát phía trước dẫn đến phần đầu xe bên phải va chạm vào ông Trần Bé T đang ngồi trên sân bê tông trước cây xăng làm ông T té ngã xuống sân và bị bánh xe trước bên phải của K điều khiển cán qua 02 chân của ông T gây ra thương tích.

Sau đó, ông T được đưa đến Trung tâm y tế thị xã N cấp cứu, do 02 chân bị thương tích nặng nên được chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Sóc Trăng và tiếp tục được chuyển đến Bệnh viện đa khoa Trung Ương Cần Thơ cấp cứu, điều trị. Đến ngày 21/4/2023 ông Trần Bé T tử vong.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng cùng các chứng cứ và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Nên Hội đồng xét xử đủ cơ sở để xác định:

Bị cáo K có giấy phép lái xe hạng C theo quy định của pháp luật nhưng do bị cáo không tuân thủ các quy định tham gia giao thông đường bộ, bị cáo điều khiển xe không chú ý quan sát nên đã va chạm vào người ông T nên đã vi phạm khoản 23 Điều 8 Luật giao thông đường bộ năm 2008 dẫn đến gây tai nạn làm cho bị hại T tử vong.

Từ hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra có đủ căn cứ để Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Trương Vủ K phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Xét các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo và chủ xe đã bồi thường cho gia đình bị hại với số tiền 150.000.000 đồng (trong đó bị cáo bồi thường số tiền là 20.000.000 đồng); gia đình bị hại có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6]. Về xử lý vật chứng: Trả cho bị cáo 01 giấy phép lái xe hạng C số 96017700xxxx tên Trương Vủ K.

[7]. Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về việc áp dụng pháp luật là có căn cứ chấp nhận. Về hình phạt cần xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm như Kiểm sát sát viên đề nghị là phù hợp, Tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi mà bị cáo gây ra.

[8].Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố : Bị cáo Trương Vủ K phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”;

1. Xử phạt bị cáo Trương Vủ K 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án hoặc bị cáo tự nguyện thi hành án.

2. Trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả cho bị cáo Trương Vủ K 01 giấy phép lái xe hạng C số 96017700xxxx tên Trương Vủ K.

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trương Vủ K phải nộp là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng);

Báo cho bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người đại diện hợp pháp cho bị hại vắng mặt được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 41/2023/HS-ST

Số hiệu:41/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ngã Năm - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về