TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 356/2021/HS-ST NGÀY 17/08/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 17 tháng 8 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 369/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 375/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng8 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Đồng Văn H, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 23/9/1984; Nơi sinh: VN, Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm LC, xã LT, huyện V, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Đồng Đức B, sinh năm 1956, con bà: Đỗ Thị L, sinh năm 1958; Vợ: Lưu Thị H, sinh năm 1991, có 03 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2015; Gia đình có 3 chị em, bị cáo là con thứ ba; Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân:
+ Tại Bản án số 391/2016/HSST ngày 30/12/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt Đồng Văn H 20.000.000 đồng về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Tại Bản án số 27/2017/HSPT ngày 16/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt Đồng Văn H 09 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Chấp hành khoản án phí ngày 21/7/2017.
+ Tại Bản án số 36/2017/HSST ngày 27/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Đồng Văn H 18 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Tổng hợp hình phạt với Bản án số 27/2017/HSPT ngày 16/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, buộc H phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 27 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 1 25/4/2018. Chấp hành xong khoản án phí ngày 09/01/2018, chấp hành xong khoản bồi thường 945.000 đồng ngày 28/11/2016.
+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 03/QĐ-XPHC ngày 04/8/2014 của Công an huyện V, tỉnh Thái Nguyên, Đồng Văn H bị xử phạt 950.000 đồng về hành vi “Gây mất trật tự ở khu dân cư”, “Cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác” và “Đánh nhau”. Đã nộp phạt ngày 04/8/2014.
+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 02/QĐ-XPVPHC ngày 09/7/2014 của Công an thị trấn ĐC, huyện V, tỉnh Thái Nguyên, Đồng Văn H bị xử phạt bằng hình thức “Cảnh cáo”.
+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 98723/QĐ-XPHC ngày 21/3/2019 của Công an huyện Đ, Đồng Văn H bị xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi “Xâm hại sức khỏe người khác”. Đã nộp phạt ngày 21/3/2019.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/4/2021 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên tòa.
* Những người tham gia tố tụng khác:
-Bị hại:
+ Bà Dương Thị M (đã chết) Đại diện hợp pháp của bà M: Ông Trần Minh S (chồng bà M) Trú tại: Thôn NT, thị trấn BG, huyện BG, tỉnh LS
+ Bà Lộc Thị P, sinh năm 1967
+ Chị Trần Thị H, sinh năm 1995
Người đại diện theo ủy quyền của chị H: Anh Hoàng Văn Y
+ Cháu Hoàng Quế A, sinh năm 2018 Đại diện hợp pháp của cháu A: Chị Trần Thị H và anh Hoàng Văn Y.
Đều trú tại: Tổ dân phố MK, thị trấn BS, huyện BS, tỉnh LS ( các bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin xử vắng mặt)
- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cháu Hoàng Quế A Bà Thiệu Thị Thanh H - Luật sư - Cộng tác viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa)
- Nguyên đơn dân sự: Công ty TNHH dịch vụ Taxi Miền Bắc Đại diện theo pháp luật: Bà ĐàoThị P- Chức vụ: Giám đốc Đại diện theo ủy quyền: Ông Phùng Lý Q – chức vụ: Trưởng Phòng Thanh tra (có mặt)
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Đặng Thị Huyền T, sinh năm 1979 Trú tại: Tổ 3, thị trấn SS, huyện S, TP. Hà Nội.
(có đơn xin xét xử vắng mặt)
+ Anh Nguyễn Viết B, sinh năm: 1993 (đồng thời là người làm chứng).
Trú tại: xóm ĐT, xã ĐL, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên(có mặt tại phiên tòa)
+ Ông Trần Minh T, sinh năm 1965(đồng thời là người làm chứng) Trú tại: Tổ dân phố MK, thị trấn BS, huyện BS, tỉnh LS (có đơn xin xét xử vắng mặt)
+ Ông Đồng Đức B, sinh năm 1956 (có mặt tại phiên tòa)
+ Chị Lưu Thị H, sinh năm 1991 (có mặt tại phiên tòa)
Cùng địa chỉ: Xóm LC, xã LT, huyện V, tỉnh Thái Nguyên.
+ Anh Nguyễn Như Q, sinh năm 1980 Trú tại: Tổ 9, phường QV, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (có đơn xin xét xử vắng mặt)
-Người làm chứng:
- Anh Trần Quốc H, sinh năm 1992;
Địa chỉ: Tổ 7, phường ĐQ, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
- Anh Lê Trung H, sinh năm 1987;
Địa chỉ: Tổ 8, phường ĐQ, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
- Anh Ngô Văn H, sinh năm 1974;
Địa chỉ: Xóm PT, xã P , thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên ( đều vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 20/4/2021, Đồng Văn H (có giấy phép lái xe theo quy định) mượn xe ô tô nhãn hiệu Landrover BKS 60A-156.22 của chị Đặng Thị Huyền T, sinh năm 1979, HKTT: Tổ 3, thị trấn SS, huyện S, thành phố Hà Nội. Đến gần 13 giờ cùng ngày, H điều khiển xe ô tô đi trên đường N hướng đi đường PĐP. Khi đi đến ngã tư giao nhau giữa đường N và đường PĐP, đoạn thuộc tổ 8, phường ĐQ, thành phố Thái Nguyên, do không chú ý quan sát, không giảm tốc độ và không nhường đường cho xe đi trên đường chính nên phần đầu xe ô tô do H điều khiển đâm thẳng vào cánh cửa trước và cánh cửa sau bên phải của xe ô tô nhãn hiệu Hyundai i10 BKS: 20A- 193.79 của hãng taxi Bình An (trực thuộc Công ty TNHH dịch vụ Taxi Miền Bắc) do anh Nguyễn VIết B, sinh năm: 1993, trú tại: xóm ĐT, xã ĐL, thành phố Thái Nguyên điều khiển chở theo 05 người khách gồm: Bà Dương Thị M, sinh năm: 1967, trú tại: Thôn NT, thị trấn BG, huyện B, tỉnh Lạng Sơn (ngồi tại ghế sau bên phải); chị Trần Thu H, sinh năm 1995 (ngồi bên trái bà M); chị Lộc Thị P, sinh năm: 1976 (ngồi bên trái chị H); ông Trần Minh T, sinh năm: 1965 (ngồi tại ghế trước bên phải) bế cháu Hoàng Quế A, sinh năm: 2018 (đều trú tại: Tổ dân phố MK, thị trấn BS, huyện B, tỉnh Lạng Sơn) đitừ Đường LNQ hướng đi đường TN, gây tai nạn làm cánh cửa trước và cánh cửa sau bên phải lún sâu vào trong xe ép vào người bà Dương Thị M. Sau khi bị đâm va, xe ô tô taxi bị văng sang bên trái đường theo hướng ngược lại còn xe ô tô BKS: 60A-156.22 bị quay ngược lại hướng về đường N. Sau đó, Đồng Văn H xuống xe rời khỏi hiện trường, những người bị thương trên taxi được đưa đi Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên cấp cứu. Khoảng 8 giờ ngày 21/4/2021, H đến Công an thành phố Thái Nguyên trình diện.
Hậu quả:
Bà Dương Thị M tử vong tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. Tại Kết luận giám định pháp y tử thi số 872/KL-KTHS ngày 19/5/2021 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Dương Thị M bị tai nạn giao thông gây đa chấn thương, chấn thương vùng ngực bụng, gãy nhiều xương sườn, dập rách phổi, dập gan gây chảy mất máu cấp, suy hô hấp cấp, suy tuần hoàn cấp dẫn đến chết.
Bà Lộc Thị P bị thoát vị đĩa đệm C4/5, C5/6. Tại Kết luận giám định số 368/TgT ngày 20/5/2021 của Trung tâm pháp y, Sở y tế Thái Nguyên kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 31 %.
Chị Trần Thị Thu H bị gãy xương đòn (T); gãy xương đòn (P); gãy 02 xương sườn. Hiện tại có 01 sẹo vết thương phần mềm vùng mặt KT nhỏ và 02 sẹo phần mềm KT nhỏ. Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 367/TgT ngày 21/5/2021 của Trung tâm pháp y, Sở y tế Thái Nguyên kết luận:
Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 19%.
Cháu Hoàng Quế A có 02 sẹo vết thương phần mềm vùng mặt KT trung bình và 01 sẹo vết thương phần mềm vùng mặt KT nhỏ. Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 366/TgT ngày 21/5/2021 của Trung tâm pháp y, Sở y tế Thái Nguyên kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 14%.
Ông Trần Minh T và anh Nguyễn Viết B không bị thương tích gì.
Xe ô tô nhãn hiệu Hyundai i10 BKS: 20A - 193.79 và xe ô tô nhãn hiệu Landrover BKS: 60A-156.22 bị hư hỏng. Tại Kết luận số 131/HĐĐGTS ngày 29/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Thái Nguyên kết luận: Xe ô tô BKS: 20A-193.79 giá trị thiệt hại là 24.000.000 đồng, xe ô tô BKS: 60A-156.22 giá trị thiệt hại là 190.000.0000 đồng.
Sau khi vụ tai nạn xảy ra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã thu thập được 01 đoạn video ghi lại hình ảnh diễn biến vụ tai nạn, Cơ quan điều tra đã tiến hành sao lưu đoạn video vào 01 USB chuyển theo hồ sơ vụ án.
Vật chứng vụ án gồm:
- 01 USB chứa nội dung hình ảnh camera về vụ tai nạn giao thông. Hiện được chuyển theo hồ sơ vụ án.
- 01 giấy phép lái xe hạng C mang tên Đồng Văn H. Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.
- 01 xe ô tô BKS: 20A-193.79. Hiện được trả lại cho Công ty TNHH dịch vụ Taxi Miền Bắc.
- 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn VIết B. Hiện được trả lại cho anh Nguyễn VIết B quản lý, sử dụng.
- 01 xe ô tô BKS: 60A-156.22, 01 bảo hiểm trách nhiệm dân sự số 0248545; 01 đăng kiểm số KD-3678581; 01 bản sao đăng ký xe ô tô BKS: 60A- 156.22. Chị T xác định đã mua chiếc xe này của anh Nguyễn Như Q, tuy nhiên do chưa trả hết tiền nên chị đã thỏa thuận với anh Q về việc anh Q nhận lại xe, chị chịu chi phí thiệt hại sửa chữa sau tai nạn. Anh Q cũng nhất trí nhận lại xe của Chị T nên cơ quan điều tra đã trả xe và các giấy tờ kèm theo cho anh Nguyễn Như Q với sự có mặt và đồng ý ký xác nhận của Chị T.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Đồng Văn H đã bồi thường cho gia đình bà Dương Thị M 200.000.000 đồng; bồi thường cho bà Lộc Thị P, chị Trần Thu H, cháu Hoàng Quế A tổng số tiền là 71.000.000 đồng. Các bên đã thoả thuận xong và không có ý kiến đề nghị gì khác.
Công ty TNHH dịch vụ Taxi Miền Bắc yêu cầu H bồi thường 40.000.000 đồng. Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí mức bồi thường mà nguyên đơn dân sự yêu cầu.
Đối với thiệt hại của xe ô tô BKS: 60A-156.22 mà bị cáo mượn của chị Đặng Thị Huyền T, Chị T xác định tự khắc phục sửa chữa, không yêu cầu bị cáo bồi thường.
Tại bản cáo trạng số 383/CT-VKSTPTN ngày 18/7/2021,Viện kiểm sát nhân dânthành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Đồng Văn H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, c khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đồng Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”:
- Về hình phạt: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Đồng Văn H từ 18 đến 24 tháng tù.
- Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586 và 589, 601 Bộ luật Dân sự
+ Bị cáo đã thỏa thuận bồi thường cho các bị hại và đại diện của các bị hại xong, không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.
+ Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn dân sự về việc bị cáo bồi thường cho Công ty TNHH Dịch vụ taxi Miền Bắc số tiền 40.000.000đ.
-Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự:
+ Lưu theo hồ sơ vụ án 01 USB chứa nội dung hình ảnh camera về vụ tai nạn giao thông.
+ Trả cho bị cáo Đồng Văn H 01 giấy phép lái xe hạng C mang tên Đồng Văn H.
-Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cháu Anh phát biểu quan điểm: Gia đình bị hại cháu Hoàng Quế A đã nhận được tiền bồi thường từ gia đình bị cáo và không có yêu cầu gì nên Luật sư bảo vệ cho cháu Quế Anh không có đề nghị gì.
Trong phần tranh luận, bị cáo, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại cháu Hoàng Quế A, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn dân sự không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát.
Trong phần lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Khoảng 13 giờ ngày 20/4/2021, tại đoạn đường giao nhau giữa đường PĐP và đường N thuộc tổ 8, phường ĐQ, thành phố Thái Nguyên, Đồng Văn H (có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Range Rover BKS: 60A-158.62 (xe H mượn của chị Đặng Thị Huyền T) tham gia giao thông không nhưng chú ý quan sát, không giảm tốc độ, không nhường đường cho xe đi trên đường chính nên đã đâm vào xe ô tô taxi nhãn hiện Huyndai i10 BKS: 20A - 193.79 (xe của công ty TNHH dịch vụ taxi Miền Bắc), do anh Nguyễn VIết B điều khiển, trên xe taxi chở 05 người ( gồm bà Dương Thị M, bà Lộc Thị P, ông Trần Minh T, chị Trần Thị H và cháu Hoàng Quế A) đang đi trên đường chính (đường PĐP) dẫn đến tai nạn giao thông. Hậu quả: Bà Dương Thị M tử vong, bà Lộc Thị P bị thương tích 31%, chị Trần Thị H bị thương tích 19%, cháu Hoàng Quế A bị thương tích 14%. Xe ô tô taxi BKS: 20A - 193.79 thiệt hại 24.000.000 đồng và xe ô tô BKS 60A-156.22 do H điều khiển thiệt hại 190.000.000 đồng. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo H đã tác động đến gia đình để thỏa thuận bồi thường cho gia đình bà Dương Thị M số tiền 200.000.000 đồng; bồi thường cho bà Lộc Thị P, chị Trần Thị H, cháu Hoàng Quế A tổng số tiền 71.000.000 đồng. Công ty TNHH dịch vụ Taxi Miền Bắc yêu cầu bị cáo bồi thường 40.000.000 đồng. Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH Dịch vụ taxi Miền Bắc xác định thiệt hại thực tế lớn hơn nhưng chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 40.000.000đ, bị cáo nhất trí bồi thường cho Công ty TNHH Dịch vụ taxi Miền Bắc số tiền này.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với sơ đồ hiện trường, kết luận giám định pháp y tử thi, bản kết luận giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể; biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Với những tình tiết đã được chứng minh cho thấy, hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định khoản 23 Điều 8 và khoản 3 Điều 24 Luật Giao thông đường bộ. Cụ thể như sau:
Điều 8: Các hành vi bị nghiêm cấm “1...
23. Hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, hành vi khác gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ”.
Điều 24: Nhường đường tại nơi đường giao nhau “1...
3. Tại nơi đường giao nhau giữa đường không ưu tiên và đường ưu tiên hoặc giữa đường nhánh và đường chính thì xe đi từ đường không ưu tiên hoặc đường nhánh phải nhường đường cho xe đi trên đường ưu tiên hoặc đường chính từ bất kỳ hướng nào tới.” Xét thấy, hành vi vi phạm nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ và gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác, hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự. Nội dung Điều 260 Bộ luật hình sự quy định như sau:
1. Người nào tham giao giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết người;
… c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%”.
Do vậy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, c khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[2]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:
Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xét xử và xử phạt hành chính nhiều lần. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, sau khi gây tai nạn, bị cáo đã tác động đến gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho các bị hại nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra, các bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi vô ý nên Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình và xã hội, trở thành công dân tốt.
[3]. Trách nhiệm dân sự:
+ Gia đình bị cáo đã thỏa thuận bồi thường xong cho các bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại và họ không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
+ Đối với số tiền 200.000.000đ do bố bị cáo là ông Đồng Đức Bộ và số tiền 71.000.000đ do vợ bị cáo là chị Lưu Thị Hương đã bồi thường cho các gia đình bị hại thay cho bị cáo, ông Bộ và chị Hương không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền này nên Hội đồng xét xử không xem xét.
+ Ông Trần Minh T không bị thương tích gì, ông là người nhận tiền bồi thường từ gia đình bị cáo thay cho bà Phượng, chị H và cháu Quế Anh (ông Tâm là chồng bà Phượng, là bố chị H và là ông ngoại cháu Quế Anh), hiện số tiền này các bị hại, đại diện hợp pháp, đại diện theo ủy quyền của bị hại xác định đã nhận lại từ ông Tâm và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
+ Đối với anh Nguyễn VIết B không bị thương tích gì, không yêu cầu gì đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.
+ Đối với chiếc xe ô tô bị cáo mượn của chị Đặng Thị Huyền T, sau tai nạn, chiếc xe bị hư hỏng, trị giá tài sản bị thiệt hại là 190.000.000đ, Chị T xác định tự khắc phục, không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền sửa xe nên Hội đồng xét xử không xem xét.
+ Đối với thiệt hại của chiếc xe ô tô BKS: 20A - 193.79 do anh Nguyễn VIết B điều khiển, trị giá tài sản bị thiệt hại là 24.000.000đ, ngoài ra, còn có thiệt hại trong những ngày xe ngừng hoạt động. Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn dân sự là Công ty taxi Miền Bắc yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền thiệt hại là 40.000.000đ. Anh Bộ xác định chiếc xe thuộc sở hữu của của Công ty TNHH dịch vụ Taxi Miền Bắc nên anh nhất trí việc Công ty có đơn yêu cầu bị cáo bồi thường, anh không có yêu cầu gì. Bị cáo là người mượn xe của Chị T, việc Chị T biết bị cáo có Giấy phép lái xe và giao xe cho bị cáo mượn đồng nghĩa với việc giao cho bị cáo quyền chiếm hữu, sử dụng chiếc xe trong thời gian mượn nên bị cáo phải tự chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại tài sản cho nguyên đơn dân sự do hành vi của mình gây ra. Xét thấy, sự thỏa thuận giữa bị cáo và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn dân sự về việc bồi thường thiệt hại số tiền 40.000.000đ là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận này.
[4]. Vật chứng của vụ án:
+ Đối với 01 USB chứa nội dung hình ảnh camera về vụ tai nạn giao thông là một trong những chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên cần lưu theo hồ sơ vụ án.
+ Đối với 01 giấy phép lái xe hạng C mang tên Đồng Văn H là giấy tờ cá nhân của bị cáo nên trả cho bị cáo để quản lý, sử dụng. Hiện vật chứng này đang bảo quản tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.
+ Đối với 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn VIết B, quá trình điều tra đã trả lại cho anh Bộ quản lý sử dụng là phù hợp.
+ Đối với 01 xe ô tô BKS: 20A-193.79, quá trình điều tra đã trả lại cho Công ty TNHH dịch vụ Taxi Miền Bắc là chủ sở hữu quản lý sử dụng là phù hợp.
+ Đối với 01 xe ô tô BKS: 60A-156.22, 01 bảo hiểm trách nhiệm dân sự số 0248545; 01 đăng kiểm số KD-3678581; 01 bản sao đăng ký xe ô tô BKS: 60A- 156.22, cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Nguyễn Như Q trên cơ sở thỏa thuận giữa Chị T và anh Q, có sự đồng ý ký biên bản của cả Chị T và anh Q là phù hợp.
[5] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại; người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại; nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
[5]. Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, hình phạt và các nội dung khác đối với bị cáo là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự, Tuyên bố: Bị cáo Đồng Văn H phạm tội “ Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
1. Áp dụng: Điểm a, c khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, Xử phạt: Đồng Văn H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/4/2021.
Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
2. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586 và 589, Điều 601 Bộ luật dân sự:
Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn dân sự là Công ty TNHH dịch vụ taxi Miền Bắc về việc bồi thường thiệt hại tài sản là chiếc xe ô tô BKS 20A-193.79, cụ thể như sau: Bị cáo bồi thường cho Công ty TNHH dịch vụ taxi Miền Bắc số tiền 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Đối với quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án và thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 26 Luật Thi hành án dân sự. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Lưu theo hồ sơ vụ án 01 USB chứa nội dung hình ảnh camera về vụ tai nạn giao thông.
- Trả cho bị cáo Đồng Văn H 01 giấy phép lái xe hạng C mang tên Đồng Văn H.
(Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/8/2021 giữa cơ quan Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).
4. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo Đồng Văn H chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 2.000.000đ (hai triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại; nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 356/2021/HS-ST
Số hiệu: | 356/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về