TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 26/2023/HS-PT NGÀY 22/03/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 22 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 13/2023/TLPT-HS ngày 16 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo Lê Thiện T do có kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Văn N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 12 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh An Giang; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 35/2023/QĐXXPT-HS ngày 09/3/2023:
Bị cáo kháng cáo:
Lê Thiện T, sinh năm 2001; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: ấp V, xã L, huyện T, tỉnh An Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Tứ Ân Hiếu Nghĩa; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Mua bán; Cha: Lê Văn H, sinh năm 1971; Mẹ: Đỗ Thị T, sinh năm 1976; Anh, chị, em ruột: 02 người, bị cáo là người thứ hai; Bị cáo chưa có vợ con;
- Tiền án, tiền sự: Không;
- Bị cáo được cho tại ngoại;
- Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa:
Luật sư: Ông Đặng Văn Kiệt – Văn phòng luật sư Đặng Văn Kiệt, Đoàn luật sư tỉnh An Giang; (có mặt) Địa chỉ: Số 29, tổ 60B, khóm Bình Đức 1, phường Bình Đức, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
* Bị hại:
Ông Trần Văn X, sinh năm 1966. (đã chết) Nơi cư trú: khóm A, thị trấn B, huyện T, tỉnh An Giang;
* Đại diện hợp pháp của bị hại:
Ông Trần Văn N, sinh năm 1940; (có mặt) Nơi cư trú: khóm A, thị trấn B, huyện T, tỉnh An Giang;
(Ngoài ra trong vụ án này người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 03 giờ ngày 07/5/2022 Lê Thiện T điều khiển xe mô tô biển số 67N1- 112.16 có gắn khung kim loại (chiều ngang 1,35m; dài 0,5m; cao 0,45m) đựng 02 thùng nhựa phía sau, lưu thông tuyến đường Liên Hoa Sơn theo hướng xã L – thị trấn B. Khi đến khu vực khóm A, thị trấn B, huyện T, tỉnh An Giang, T điều khiển xe trong tình trạng ngủ gật, không làm chủ tay lái, làm khung kim loại bên phải va chạm với ông Trần Văn X đi bộ cặp lề đường cùng chiều phía trước. Hậu quả, làm ông X ngã xuống đường bất tỉnh, được mọi người đưa đi cấp cứu và chết tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang. Riêng, T bị thương tích nhẹ. Ngày 11/9/2022, Lê Thiện T bị khởi tố và được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.
Vật chứng thu giữ:
01 xe mô tô biển số 67N1-112.16, hiệu Guida, màu đỏ, số máy 031009, số khung 031009; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 67N1-112.16, số 011660; khung kim loại kích thước (ngang 1,35m x dài 0,5m x cao 045m) có gắn 02 sọt nhựa màu xanh cùng kích thước (ngang 0,6m x dài 0,43m; cao 0,37m); 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 890191015657; 01 chiếc dép quai kẹp bằng nhựa màu xanh.
* Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 117/TT ngày 07/5/2022 cảu Tổ cức giám định pháp y tỉnh An Giang ghi nhận: Trần Văn X chết do chấn thương sọ não nặng, xuất huyết dưới nhện, dập phù não.
* Căn cứ biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 07/5/2022, biên bản khám nghiệm phương tiện có liên quan của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện T lập ngày 07/5/2022 ghi nhận các dấu vết phù hợp với nội dung vụ án.
* Căn cứ biên bản đo nồng độ cồn lúc 7 giờ 10 ngày 07/5/2022 của Đội cảnh sát giao thông– Công an huyện T, ghi nhận: Lê Thiện T có nồng độ cồn 0,000mg/1 lít khí thở.
* Căn cứ vào biên bản xét nghiệm tìm chất ma túy vào lúc 16 giờ 00 phút, ngày 07/5/2022 và phiếu xét nghiệm tại Trung tâm y tế huyện T, tỉnh An Giang, kết quả kiểm nghiệm: Âm tính với Methamphetamine.
* Tại Cáo trạng số 33/CT-VKSTT-HS ngày 24/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh An Giang, truy tố bị cáo Võ Thiện T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 12 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh An Giang quyết định:
Tuyên bố bị cáo Lê Thiện T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017;
Xử phạt: Bị cáo Lê Thiện T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, cùng ngày 16/12/2022 bị cáo Lê Thiện T và ông Trần Văn N đại diện hợp pháp cho bị hại kháng cáo với cùng nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin cho bị cáo được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thiện T thừa nhận hành vi phạm tội như cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo, để lao động phụ giúp gia đình, làm công dân có ích cho xã hội; đồng thời bị cáo trình bày tiếp tục bồi thường 10.000.000 đồng cho đại diện hợp pháp của bị hại. Ông Trần Văn N đồng ý phần bồi thường thêm của bị cáo và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin cho bị cáo được được hưởng án treo.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, tranh luận, xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo; xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về hình thức: Đơn kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Thiện T và đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Văn N có nội dung yêu cầu rõ ràng, gửi trong hạn luật định, nên đủ cơ sở chấp nhận xét xử theo trình tự phúc thẩm.
- Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, của đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử bị cáo Lê Thiện T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và tuyên phạt bị cáo 09 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp của bị hại là ông Trần Văn N xin cho bị cáo được hưởng án treo, bị cáo cũng đồng ý tiếp tục bồi thường cho gia đình bị hại 10.000.000 đồng và bên phía đại diện bị hại cũng đồng ý; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; là quân nhân vừa xuất ngũ; có nơi cư trú rõ ràng, trong thời gian được tại ngoại không có vi phạm pháp luật gì mới, xét thấy bị cáo đủ điều kiện để được hưởng án treo, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội.
Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Thiện T và yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn N; Sửa bản án sơ thẩm về hình phạt. Đề nghị xử phạt bị cáo 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm 06 tháng. Giao cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh An Giang, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Đồng thời công nhận sự thỏa thuận, bị cáo tiếp tục bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 10.000.000 đồng.
* Người bào chữa cho bị cáo Lê Thiện T trình bày:
Thống nhất về tội danh, khung hình phạt như Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay, không tranh luận. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; chưa có tiền án, tiền sự; hoàn cảnh gia đình khó khăn; là quân nhân vừa xuất ngũ; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; khắc phục hậu quả cho bị hại; ngoài ra bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, trong thời gian tại ngoại không vi phạm pháp luật gì mới; đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Văn N cũng đồng ý cho bị cáo tiếp tục bồi thường 10.000.000 đồng và xin cho bị cáo được hưởng án treo. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Bị cáo Lê Thiện T và đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Văn N nộp đơn kháng cáo trong hạn luật định, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thiện T khai nhận thực hiện hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng; cùng các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử Lê Thiện T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Thiện T và và đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Văn N thì thấy:
Bị cáo T là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã được học Luật giao thông đường bộ, cũng như các quy tắc giao thông đường bộ, được đào tạo, sát hạch và được cấp giấy phép lái xe, nhận thức được việc điều khiển phương tiện tham gia giao thông là nguồn nguy hiểm cao độ nó có thể gây ra nguy hại cho người và tài sản bất cứ lúc nào nếu không tuân thủ, chấp hành pháp luật. Lẽ ra, khi cảm thấy buồn ngủ, không còn giữ được sự tỉnh táo để tham gia giao thông bị cáo phải dừng lại, nhưng bị cáo không làm được điều đó, mà vì quá tự tin vào khả năng của mình và nhận định chủ quan rằng có thể tiếp tục lái xe với tình trạng ngủ gật như vậy, nên bị cáo đã thiếu quan sát, không làm chủ được tay lái đụng trúng vào bị hại ông Trần Văn X đang đi bộ trên lề đường dẫn tới va chạm làm ông X ngã xuống, mặc dù đã được đưa đi cấp cứu nhưng ông X đã tử vong.
Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, không những vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, ảnh hưởng đến sự an toàn của hoạt động giao thông vận tải do Nhà nước thiết lập để duy trì sự ổn định và phát triển xã hội mà còn gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác, gây ra đau thương mất mát cho gia đình nạn nhân mà không có gì có thể bù đắp được. Do đó, cần xử phạt bị cáo với một mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo nhằm răn đe và phòng ngừa chung.
Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá toàn diện tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tuyên phạt bị cáo Lê Thiện T 09 tháng tù là phù hợp, thỏa đáng, đúng pháp luật, tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.
Lẽ ra, cần giữ nguyên mức hình phạt mà cấp sơ thẩm tuyên phạt. Tuy nhiên, xét thấy tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; chưa có tiền án tiền sự; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; là lao động chính trong gia đình; bị cáo là quân nhân mới xuất ngũ; đã khắc phục hậu quả cho đại diện bị hại; trong thời gian được tại ngoại bị cáo không có vi phạm pháp luật gì mới; có nơi cư trú rõ ràng; tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo đồng ý tiếp tục bồi thường cho gia đình bị hại 10.000.000 đồng; đại điện hợp pháp của bị hại đồng ý và xin cho bị cáo được hưởng án treo. Xét thấy, không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, mà buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung. Do đó, Hội đồng xét xử có cân nhắc và quyết định chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo và của đại diện bị hại xin được hưởng án treo như Đại diện Viện kiểm sát và luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị và công nhận sự tự nguyện, thỏa thuận bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền 10.000.000 đồng cho đại diện bị hại.
[4] Do yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Thiện T được Hội đồng xét xử chấp nhận, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
[5] Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Thiện T và ông Trần Văn N xin hưởng án treo.
Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Xử phạt: Bị cáo Lê Thiện T 09 (chín) tháng tù, về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 năm 06 tháng, tính từ ngày 22/3/2023.
Giao bị cáo Lê Thiện T cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh An Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, bị cáo Lê Thiện T cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Bị cáo Lê Thiện T có trách nhiệm tiếp tục bồi thường số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) do đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Văn N đại diện nhận.
Bị cáo Lê Thiện T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo).
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 26/2023/HS-PT
Số hiệu: | 26/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về