TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 128/2022/HS-PT NGÀY 20/04/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 20 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 64/2022/TLPT-HS ngày 25 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Đỗ Trọng H; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 545/2021/HS-ST ngày 17-12-2021 của Tòa án nhân dân thành phố B.
- Bị cáo có kháng cáo: Đỗ Trọng H, sinh năm 1974 tại Thanh Hóa; Căn cước công dân số: 03807400709x, cấp ngày 07-6-2018; nơi đăng ký thường trú: Thôn Q, xã V, huyện X, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú (có đăng ký tạm trú): Số A, khu phố B, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Minh Đ (đã chết) và bà Lê Thị L, có vợ tên Nguyễn Thị T và có 03 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; hiện nay, bị cáo không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn; có mặt tại phiên tòa.
- Ngoài ra, vụ án còn có người khác tham gia tố tụng, không có kháng cáo và không có kháng nghị, Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Nội dung chính:
Đỗ Trọng H có giấy phép lái xe ô tô hạng C theo quy định, là nhân viên lái xe của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng L (gọi tắt là Công ty L), theo Hợp đồng lao động số: 08/10/13/HĐLĐ-Q9 ngày 01/10/2013.
Khoảng 13 giờ 10 phút ngày 11/01/2021, Đỗ Trọng H điều khiển xe ô tô tải, loại xe bồn trộn bê tông biển số 51E-033.1x của Công ty L, lưu thông trên đường B, hướng từ ngã ba Cây K đi ngã tư Chợ Đ. Khi đến vòng xoay, giao nhau giữa đường B và đường Q, thuộc khu phố B, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, H bật đèn tín hiệu, quan sát gương chiếu hậu bên phải và điều khiển xe chuyển hướng, rẽ phải vào đường Q hướng đi vòng xoay ngã năm Cầu H; cùng lúc này, chị Nguyễn Thị Thúy H điều khiển xe mô tô biển số 60F2-047.2x đang lưu thông cùng chiều phía trước đầu xe của H. Do H chuyển hướng không đảm bảo an toàn, thiếu chú ý quan sát phía trước, nên H đã để góc phải biển số phía trước của xe ô tô do H điều khiển va chạm với thanh nâng phía sau đuôi xe của xe mô tô biển số: 60F2-047.2x do chị Thúy H điều khiển. Hậu quả: Chị Thúy H và xe ngã xuống đường và bị bánh xe bên trái xe ô tô biển số 51E- 033.1x do H điều khiển cán lên người, dẫn đến tử vong.
2. Khám nghiệm - Hiện trường:
Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 11/01/2021 và Biên bản sơ đồ hiện trường của Công an thành phố B, xác định:
- Nơi xảy ra tai nạn là vòng xoay ngã tư H giao nhau giữa đường B và đường Q, nằm dưới khu vực cầu vượt H. Mặt đường trải nhựa bằng phẳng, đoạn đường cong về bên phải theo hướng lưu thông từ ngã ba Cây K đi vòng xoay ngã năm Cầu H.
- Xác định điểm mốc và mép đường nơi xảy ra tai nạn: Tất cả các dấu vết, chiều hướng đều được đo vào mép lề đường bên phải vuông góc (gọi tắt là lề phải) và trụ đèn số 46 trên lề phải đường Q hướng đi vòng xoay ngã năm Cầu H làm mốc.
- Mô tả theo thứ tự vị trí nạn nhân, phương tiện, tang vật, dấu vết:
(1) Xe ô tô tải biển số 51E-033.1x dừng trên, đầu xe chếch hướng chân cầu vượt Hóa A, đuôi xe hướng đường B (ngã ba Cây K), trục bánh trước bên phải cách lề phải là 02m70 và cách trụ đèn 46 là 10m80 về hướng vòng xoay ngã năm Cầu Hang, trục bánh đôi sau bên phải cách lề phải 02m27.
(2) Xe mô tô biển số 60F2-047.2x ngã nghiêng bên phải trên đường, đầu xe chếch hướng chân cầu vượt Hóa A hướng vòng xoay ngã năm Cầu H, đuôi xe hướng vào đường B (ngã ba Cây K), trục bánh trước cách lề phải là 05m27; trục bánh sau cách lề phải là 05m13 và cách trục bánh trước bên trái xe ô tô tải 51E- 033.1x là 01m20.
Vết cày của xe mô tô biển số 60F2-047.2x cách lề phải là 04m50, cách gác chân trước của xe mô tô là 13m90 và cách tâm trục bánh xe đôi phía sau bên trái thứ 3 xe ô tô tải là 07m00.
(3) Vị trí nạn nhân tử vong sau tai nạn: Nạn nhân té ngã theo tư thế nằm sấp dưới gầm xe ô tô tải (trước vị trí bánh xe đôi phía sau xe ô tô tải) đầu nạn nhân hướng vuông góc với lề phải, cách lề phải là 02m55 và cách trục bánh xe đôi phía sau bên phải thứ nhất xe ô tô tải là 01m20, chân nạn nhân hướng chân cầu vượt Hóa A.
Vết chà của xe mô tô biển số 60F2-047.2x trên đường rộng 0m40, dài 06m85. Hai đầu vết chà cách lề phải lần lượt là 04m55 và 04m80.
3. Giám định:
1/ Biên bản khám phương tiện xe ô tô biển số 51E-033.1x vào ngày 11/01/2021, ghi nhận như sau: Mặt ngoài cản xe trước vị trí cạnh biển số xe có vết trầy xước, bong tróc sơn xe; biển số xe phía trước vị trí góc bên phải có vết trầy xước, cong móp kim loại theo chiều hướng từ trước về sau.
2/ Biên bản khám phương tiện xe mô tô biển số 60F2-047.2x vào ngày 11/01/2021 ghi nhận như sau: Mặt ngoài nắp ốp tay lái trước có vết trượt xước mài mòn nhựa; yếm chắn gió bên phải chà xước mài mòn nhựa; ốp nhựa hông xe bên phải chà xước, nứt gãy, mài mòn nhựa; mặt ngoài ống pô xe chà xước, móp lõm, mài mòn kim loại; mặt ngoài gác chân sau bên phải chà xước mài mòn kim loại; ốp nhựa hỗng xe bên trái vị trí cạnh tay dắt xe sau nứt găng nhựa; bộ phận giảm xóc bánh xe sau cong móp theo hướng từ sau về trước, từ phải qua trái; ốp nhựa bộ phận lọc gió nứt gãy, bể vỡ; đèn chiếu hậu nứt gãy, bể vỡ nhựa; vè chắn bùn sau nứt gãy nhựa, bung rời khỏi xe; biển số xe bung rời khỏi xe.
3/ Kết luận giám định số: 212/KLGĐ ngày 11/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận vị trí, chiều hướng, cơ chế hình thành dấu vết va chạm giữa xe ô tô biển số 51E-033.1x với xe mô tô biển số 60F2-047.2x:
“- Dấu vết cong vênh trượt xước, mài mòn tại góc phải biển số phía trước của xe ôtô tải bồn bê tông biển số: 51E-033.1x có chiều hướng dấu vết từ trước ra sau, từ phải sang trái, hình thành do quá trình va chạm với thanh nâng phía sau đuôi xe của xe mô tô biển số: 60F2-047.2x.
- Hệ thống dấu vết nứt vỡ, trượt xước, mài mòn tại các chi tiết phía sau bên trái: Cụm đèn sau, vè chắn bùn cùng biển số, ốp nhựa thân xe phía sau cùng bộ phận lọc gió của xe mô tô biển số: 60F2-047.2x có chiều hướng dấu vết từ sau về trước, từ trái sang phải, hình thành do quá trình va chạm với mặt lăn bánh trước bên trái của xe ô tô tải bồn bê tông biển số: 51E-033.1x (khi xe mô tô đã ngã đổ).
- Hệ thống dấu vết nứt vỡ, trượt xước, mài mòn tại các chi tiết bên phải: Mặt ngoài yếm chắn gió, bệ khung gác chân trước và sau, ốp nhựa thân xe phía sau cùng mặt ngoài ống xả của xe mô tô biển số: 60F2-047.2x có chiều hướng dấu vết từ trước ra sau, từ phải sang trái hình thành do quá trình va chạm với mặt đường khi xe ngã.”.
4/ Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 101/KLGĐ-PC09 ngày 17/03/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận về nguyên nhân tử vong của nạn nhân Nguyễn Thị Thúy H như sau: Đa chấn thương; chấn thương đầu - mặt hở vỡ xương hộp sọ, gãy xương gò má, gãy xương sống mũi, gãy xương hàm dưới; chấn thương ngực kín dập rách và tụ máu rốn phổi và nhu mô phổi, đứt rốn tim, đứt động mạch cảnh gốc phải.
5/ Kết luận giám định pháp y về về hóa pháp số: HST65/ĐC.2021 của Trung tâm pháp y Sở y tế thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận về nồng độ ethanol trong máu của nạn nhân Nguyễn Thị Thúy H: Nồng độ Ethanol: 2,25 mg/100ml (Theo Quyết định số 320/QĐ-BYT ngày 23/01/2014, trị số bình thường <50,23mg/100ml).
4. Vật chứng:
Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố B đã giao trả 02 phương tiện cơ giới đường bộ nêu trên cho các chủ sở hữu.
5. Dân sự:
Tại cấp sơ thẩm, bị cáo Đỗ Trọng H và chủ xe ô tô đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 400.000.000 đồng (bốn trăm triệu đồng). Ngày 18-02-2021, ông Nguyễn Kỹ L là đại diện gia đình bị hại có đơn “bãi nại”, đề nghị không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đỗ Trọng H.
6. Quyết định của cấp sơ thẩm:
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 545/2021/HS-ST ngày 17-12-2021 của Tòa án nhân dân thành phố B, đã quyết định như sau:
Tuyên bố bị cáo Đỗ Trọng H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Đỗ Trọng H 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.
7. Kháng cáo:
Ngày 31-12-2021, bị cáo Đỗ Trọng H kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị được hưởng án treo.
8. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:
Kiểm sát viên đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án; xác định cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Đỗ Trọng H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người và đúng tội. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tình tiết đặc biệt nào mới, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tội danh:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đỗ Trọng H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 2 Điều 15 của Luật Giao thông đường bộ. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2] Về kháng cáo:
2.1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
2.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tại cấp sơ thẩm: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại; người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn “bãi nại” cho bị cáo; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Áp dụng cho bị cáo điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Tại cấp phúc thẩm: Bị cáo cung cấp tài liệu, thể hiện mẹ bị cáo bà Lê Thị L có thành tích tham gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Áp dụng cho bị cáo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
2.3. Về hình phạt:
Với hành vi phạm tội như trên, lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo, việc quyết định hình phạt của cấp sơ thẩm đối với bị cáo là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cung cấp được tình tiết mới; do đó, chấp nhận một phần kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[3] Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Đỗ Trọng H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Không chấp nhận quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1, 2 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Đỗ Trọng H;
Sửa một phần về hình phạt do khách quan, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 545/2021/HS-ST ngày 17-12-2021 của Tòa án nhân dân thành phố B.
1. Tội danh và hình phạt:
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Đỗ Trọng H 01 (một) năm tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời hạn tù tính từ ngày người bị kết án Đỗ Trọng H vào cơ sở giam giữ chấp hành án phạt tù.
2. Về án phí:
Bị cáo Đỗ Trọng H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Quyết định của bản án sơ thẩm về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 128/2022/HS-PT
Số hiệu: | 128/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về