Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 09/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM TÂN, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 09/2023/HS-ST NGÀY 24/02/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 24 tháng 02 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 84/2022/TLST-HS ngày 12/12/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2023/QĐXXST-HS ngày 09/02/2023 đối với bị cáo: VÕ HOÀNG P1 (Tên gọi khác: Không), sinh năm: 2000 tại Bình Thuận;

Nơi cư trú: Thôn G, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Lao động biển; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Võ Trường S, sinh năm: 1977 và bà Trần Thị N, sinh năm: 1981; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai;

Vợ, con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện bị cáo đang tại ngoại.

Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Nguyễn Thảo V, sinh năm: 2001 (đã chết). Người đại diện hợp pháp:

Bà Nguyễn Thị Thúy P, sinh năm: 1977; địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận (là mẹ ruột của bị hại Nguyễn Thảo V) (vắng mặt);

2. Mã Đại N1, sinh năm: 1992; địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận. Người đại diện hợp pháp: Ông Ngô Văn C, sinh năm: 1968 và bà Mã Thị Hồng A, sinh năm: 1990; cùng địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận (là cha ruột, chị ruột của Mã Đại N1) (có mặt);

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Võ Trường S, sinh năm:

1977; địa chỉ: Thôn G, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận (có mặt).

- Người làm chứng:

1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1983; địa chỉ: Thôn S, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt);

2. Ông Trần Văn Thanh H, sinh năm: 1992; địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt);

3. Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1968; địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ 00 phút ngày 15/01/2022, Võ Hoàng P1, sinh năm: 2000, trú tại thôn G, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận (chưa có giấy phép lái xe hạng A1) tự ý lấy xe mô tô biển kiểm soát 86B5-205.21 (dung tích 149cm3, xe của ông Võ Trường S là cha ruột P1) đang để ở nhà rồi điều khiển xe mô tô trên chở bạn gái là Nguyễn Thảo V, sinh năm: 2001, trú tại thôn P, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận lưu thông trên Quốc lộ E hướng xã T đi xã B, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Khoảng 20 giờ 25 phút cùng ngày, đến gần cầu S đoạn Km 60+500-QL55, thuộc thôn H, xã T, huyện H, do không làm chủ được tay lái nên P1 đã để xe mô tô do mình điều khiển lấn sang phần đường ngược chiều bên trái và tông vào xe mô tô biển kiểm soát 73H1-114.xx do anh Mã Đại N1, sinh năm:

1992, trú tại thôn P, xã T, huyện H điều khiển từ hướng ngược chiều đến gây tai nạn giao thông. Hậu quả Nguyễn Thảo V tử vong trên đường đi cấp cứu, P1 và N1 bị thương.

Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông do Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện H hồi 23 giờ ngày 15/01/2022 thể hiện:

Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn gần cầu S là đoạn đường thẳng, dốc nhẹ hai chiều, mặt đường bê tông nhựa bằng phẳng rộng 8,3m. Ở giữa tim đường kẻ vạch sơn màu vàng nét đứt, chia mặt đường thành hai phần đường xe chạy riêng biệt, phần đường xe chạy bên phải theo hướng L đi Vũng Tàu rộng 3,95m.

Chọn mép lề đường nhựa bên phải theo hướng L đi Vũng Tàu làm mép lề đường chuẩn, chọn cọc H Km60+500-QL55 (nằm trên lề đất bên phải theo hướng Vũng Tàu đi L) làm điểm chuẩn cố định lâu dài, hiện trường thể hiện như sau:

- Được đánh dấu số (1) trên hiện trường là xe mô tô biển kiểm soát 86B5 - 205.xx nằm ngã nghiêng về bên phải trên phần đường xe chạy hướng L đi Vũng Tàu, đầu xe hướng Vũng Tàu, đuôi xe hướng L. Đo từ trục bánh trước của xe vào lề đường được 3,5m. Đo từ trục bánh sau của xe vào lề được 2,7m.

- Vết được đánh dấu số (2) trên hiện trường là xe mô tô biển kiểm soát 73H1 - 114.60 nằm ngã nghiêng về bên phải trên phần đường xe chạy hướng L đi Vũng Tàu, đầu xe hướng ra tim đường, đuôi xe hướng vào lề chuẩn. Đo từ trục bánh trước của xe vào lề được 3,1m. Đo từ trục bánh sau của xe vào lề được 2,05m; đo đến trục sau số (1) được 1,5m.

- Được đánh dấu số (3) trên hiện trường là vùng mảnh vỡ kích thước (4,6 x 3,2)m nằm rải rác trên phần đường xe chạy. Đo từ tâm vết vào lề được 4,9m, đo đến trục trước số (1) được 02m, đo đến điểm mốc cố định được 4,3m.

- Được đánh dấu số (4) trên hiện trường là vết chà kích thước (2,2m x 01cm), đầu vết nằm trên phần đường hướng Vũng Tàu đi L, cuối vết trùng với gác chân trước bên phải xe mô tô biển kiểm soát 73H1 - 114.60. Đo từ đầu vết vào lề được 4,7m. Đo từ cuối vết vào lề được 2,5m.

- Được đánh dấu số (5) trên hiện trường là vết chà kích thước (60 x 20)cm, đầu vết hướng Vũng Tàu, cuối vết hướng L. Đo từ tâm đầu vết vào lề được 3,8m. Đo từ tâm cuối vết vào lề được 3,6m.

- Được đánh dấu số (6) trên hiện trường là vết máu kích thước (1,2m x 50cm). Đo từ tâm vết vào lề được 1,1m.

Tại Biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông, thì tình trạng xe mô tô biển kiểm soát 73H1 - 114.60 sau tai nạn thể hiện:

- Ốp nhựa trên cổ lái phần trước vỡ nát, xô lệch khỏi vị trí cố định;

- Cụm đèn chiếu sáng trước và đèn tín hiệu vỡ toàn bộ rời khỏi xe;

- Bửng chắn gió bên trái và bên phải vỡ;

- Cặp phuộc trước bị đẩy về phía sau 02cm;

- Lốp bánh trước nổ; niền, mâm, căm bên phải vỡ;

- Cao su đầu tay nắm lái bên phải tét rách;

- Gác chân trước bên phải cong từ dưới lên trên 02cm đụng vào lốc máy, đầu cốt sắt bị mài mòn;

- Và một số hư hỏng khác thể hiện trong biên bản.

Tại Biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông, thì tình trạng của xe mô tô biển kiểm soát 86B5 - 202.xx sau tai nạn thể hiện:

- Ốp nhựa ngoài cụm đèn và đèn chiếu sáng toàn bộ vỡ rời khỏi vị trí cố định;

- Dè chắn bùn bánh trước vỡ toàn bộ rời khỏi xe;

- Niền, mâm, căm bánh trước bên phải vỡ;

- Ốp cách nhiệt thân pô xả động cơ, phần ốc trước bắt liền kề với thân pô bị mài mòn, phần sau vỡ;

- Và một số hư hỏng khác thể hiện trong biên bản.

Tại Kết luận giám định số: 161/KL-KTHS ngày 02/3/2022 của Phòng Kỷ thuật Hình sự Công an tỉnh B kết luận:

- Vị trí va chạm giữa xe mô tô biển kiểm soát 86B5 - 205.xx và xe mô tô biển kiểm soát 73H1 - 114.60 nằm trên phần đường bên phải theo hướng Vũng Tàu đi L;

- Xe mô tô biển kiểm soát 86B5 - 205.xx có các vết va chạm: Vành trước, nan hoa trước bị vỡ; chắn bùn trước bị vỡ, đèn trước vỡ phù hợp với các dấu vết va chạm trên xe mô tô biển kiểm soát 73H1 - 114.60: Ốp đầu xe vỡ, chắn gió trước vỡ, giảm xóc trước bị đẩy về sau; vành, xăm, lốp trước vỡ;

- Xe mô tô biển kiểm soát 86B5 - 205.xx di chuyển theo hướng L đi Vũng Tàu; xe mô tô biển kiểm soát 73H1 - 114.60 di chuyển theo hướng Vũng Tàu đi L.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 37/2022/TT ngày 15/02/2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh B đối với Nguyễn Thảo V thể hiện: Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vết thương vùng trán: Vỡ phức tạp xương sọ vùng trán, kèm nhiều mảnh vỡ lún sâu vào tổ chức não; vỡ sụp xương trần ổ mắt phải và trái; vở sụp xương chính mũi.

- Vết sướt da nông gò má trái.

Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não nặng dẫn đến tử vong.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 351/2022/Tgt ngày 15/9/2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh B đối với Mã Đại N1 thể hiện:

- Vết thương - chấn thương vùng thái dương đỉnh phải, nứt sọ thái dương đỉnh phải, tụ máu dưới màng cứng bán cầu não trái, dập não thái dương trái đã được phẩu thuật điều trị, hiện khuyết sọ thái dương đỉnh trái đường kính khoảng 12cm, còn hình ảnh nhuyễn não thùy thái dương - chẫm trái trên phim CT- Scaner, cầu tiểu không tự chủ thường xuyên, yếu ½ người trái mức độ nhẹ, sức cơ tay, chân trái: 4/5, phải: 5/5; để lại sẹo vết thương kích thước (3 x 1,3)cm; sẹo vết mổ kích thước: (27 x 0,5)cm; sẹo ống nội khí quản kích thước: (4,5 x 1)cm.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 5% + 41% + 21% + 36% + 31% + 1% + 3% + 1%.

- Vết thương phần mềm đầu ngoài chân mày mắt trái đã được điều trị, hiện để lại sẹo lành kích thước: (3,1 x 0,2)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 3%.

- Vết thương - chấn thương 1/3 giữa mặt trước cẳng chân phải, gẫy kín 1/3 giữa xương chày phải hiện can xương xấu, di lệch chồng ngắn để lại sẹo lành kích thước: (6,5 x 0,6)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 16% + 3%.

- Sưng nề bầm tím vùng bụng, chậu đã được điều trị, hiện không còn dấu vết. Không đủ cơ sở xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể.

Tng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên cho ông Mã Đại N1 l85%.

Vật chứng vụ án: Xe mô tô biển kiểm soát 86B5 - 205.xx đã trả cho chủ sở hữu là ông Võ Trường S; xe mô tô biển kiểm soát 73H1 - 114.60 đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Mã Đại N1 .

Về phần dân sự: Võ Hoàng P1 đã bồi thường cho gia đình bị hại Nguyễn Thảo V số tiền 10.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Thúy P (mẹ ruột-người đại diện hợp pháp cho bị hại) không yêu cầu bồi thường gì thêm. Sau tai nạn, ông Mã Đại N1 m khả năng nhận thức nên bà Mã Thị Hồng A (chị ruột-người đại diện theo ủy quyền cho ông N1) yêu cầu bồi thường 125.000.000 đồng là chi phí điều trị thương tích, Võ Hoàng P1 đã bồi thường được 20.000.000 đồng và thỏa thuận bồi thường số tiền còn lại trong thời hạn một năm, tính từ ngày 07/6/2022, chia thành 05 đợt theo biên bản thỏa thuận giữa các bên.

Tại Cáo trạng số: 83/CT-VKS ngày 28/11/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận truy tố bị cáo Võ Hoàng P1 về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Võ Hoàng P1 phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” như nội dung Cáo trạng đã truy tố, đồng thời xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 260, Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Hoàng P1 từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù; đồng thời giải quyết vấn đề dân sự theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của bị cáo: bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân; thống nhất với nội dung và tội danh mà Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân đã truy tố, đồng thời xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người đại diện hợp pháp của bị hại xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, ngoài ra không có tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử, thấy rằng: các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo không có ý kiến, hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị Thúy P là người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Thảo V, những người làm chứng đều vắng mặt. Xét thấy quá trình giải quyết vụ án, bị cáo đã bồi thường đủ số tiền theo yêu cầu của bà P, bà P không có yêu cầu gì và có đơn bãi nại cho bị cáo; những người làm chứng đã có lời khai trong hồ sơ vụ án. Do vậy, việc vắng mặt của bà P và những người làm chứng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên HĐXX vẫn tiến hành phiên tòa theo thủ tục chung.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường và các biên bản khám phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông cũng như các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở xác định:

Khong 20 giờ 25 phút, ngày 15/01/2022, bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 86B5-205.21 (dung tích 149cm3) chở Nguyễn Thảo V lưu thông trên đường Quốc lộ 55 hướng từ xã T đi xã B. Đến đoạn Km60+500 thuộc thôn H, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận do không làm chủ được tay lái nên Võ Hoàng P1 đã để xe mô tô do mình điều khiển lấn sang phần đường ngược chiều bên trái tông vào xe mô tô biển kiểm soát 73H1-114.xx do ông Mã Đại N1 điều khiển từ hướng ngược chiều đến. Hội đồng xét xử nhận thấy, bị cáo Võ Hoàng P1 là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do không chấp hành đúng quy định của Luật giao thông đường bộ khi tham gia giao thông, cụ thể là đi không đúng phần đường quy định, vi phạm Khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ, là nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông dẫn đến hậu quả Nguyễn Thảo V tử vong, Mã Đại N1 bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 85%. Hành vi với lỗi vô ý này của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng về an toàn giao thông là khách thể được Luật hình sự bảo vệ nên đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Do bị cáo không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” với tình tiết định khung tăng nặng quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, đã bồi thường cho bị hại; người đại diện hợp pháp của các bị hại có đơn bãi nại cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nghĩ nên cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trật tự an toàn giao thông mà còn gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng nào, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị hại có đơn bãi nại, bị cáo cũng bị thương trong vụ tai nạn trên nên cần chiếu cố quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Tuy nhiên với hậu quả gây ra như trên là rất nghiêm trọng nên phải xử lý nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nghĩ nên cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian mới đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Đối với ông Võ Trường S là chủ sở hữu xe mô tô biển kiểm soát 86B5 - 205.xx, do ông S không giao xe mô tô cho bị cáo điều khiển, bị cáo tự lấy xe đi và gây tai nạn nên không có căn cứ để xử lý hình sự.

[7] Về vật chứng vụ án: Đã xử lý nên không xem xét giải quyết.

[8] Về dân sự: Sau tai nạn, bà Nguyễn Thị Thúy P là người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Thảo V yêu cầu bị cáo bồi thường 10.000.000 đồng, gia đình bị cáo đã bồi thường xong, bà P không yêu cầu gì thêm; đối với thiệt hại gây ra cho Mã Đại N1, gia đình bị cáo và người đại diện của bị hại N1 tự thỏa thuận về vấn đề bồi thường theo Biên bản lập ngày 07/6/2022. Tại phiên tòa, những người đại diện hợp pháp của bị hại N1 đề nghị Tòa án để gia đình hại tiếp tục bồi thường theo biên bản trên, không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề bồi thường nên HĐXX không xem xét. Quá trình thực hiện thỏa thuận bồi thường, trường hợp có tranh chấp thì các bên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án khác.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Võ Hoàng P1 phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng: Điểm a Khoản 2 Điều 260, Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Võ Hoàng P1 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Võ Hoàng P1 phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai, báo cho bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại có mặt biết có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 09/2023/HS-ST

Số hiệu:09/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Tân - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về