TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 24/01/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 24 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 45/2023/HSST ngày 26/12/2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2024/HSST-QĐ ngày 02/01/2024 đối với bị cáo:
- Họ và tên: Trịnh Hoàng T, sinh năm 2000; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: ấp N, xã T Phú, huyện T, tỉnh C; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 6/12; Họ và tên cha, mẹ: ông Trịnh Văn Th và bà Huỳnh Thị T1; Anh chị em ruột: có 03 người (lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2004); Vợ, con: Chưa có.
Tiền án; Tiền sự: Không.
Bị cáo Trịnh Hoàng T đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến ngày 08/02/2024. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Bà Nguyễn Thị T (chết) Đại diện cho bị hại: Ông Thái Hoàng M, sinh năm 1980 là Chồng của bị hại. (có mặt) Địa chỉ cư trú: ấp N, xã T Phú, huyện T, tỉnh C.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Trịnh Tú L, sinh năm 1987 (là chú của bị cáo Trịnh Hoàng T).
Địa chỉ cư trú: ấp Giao Khẩu, xã T Phú, huyện T, tỉnh C (có mặt).
2/ Ông Trịnh Văn Th, sinh năm 1968 (cha của T). (có mặt). Địa chỉ cư trú: ấp N, xã T Phú, huyện T, tỉnh C
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 35 phút ngày 01/9/2023, Trịnh Hoàng T trực tiếp điều khiển xe môtô biển số 69D1-xxxxx từ nhà của ông Phan Văn Ghép ở ấp N, xã T Phú đi về nhà của T ở ấp Giao Khẩu, xã T Phú trên tuyến Quốc lộ 63 theo hướng từ xã Trí Phải về xã T Phú. Lúc này, chị Nguyễn Thị T đang đi bộ ở lề lộ bên phải theo hướng đi của mình và đi phía trước cùng chiều với xe môtô của T đang trực tiếp điều khiển trên đoạn đường thuộc ấp N, xã T Phú. Đây là đoạn đường cong, có biển báo nguy hiểm “Chổ ngoặt nguy hiểm vòng bên phải W2016”, do T không giảm tốc độ và không chú quan sát nên đụng trúng vào người chị T. Tai nạn xảy ra làm chị T bị thương tích nặng, được người nhà đưa đi điều trị cho đến ngày 02/9/2023 thì tử vong. T bị thương tích nhẹ và xe mô tô bị hư hỏng nhẹ.
Tại biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông lập lúc 15 giờ 30 phút ngày 02/9/2023, tại tuyến Quốc lộ 63 đoạn lộ thuộc khu vực ấp N, xã T Phú xác định vị trí người liên quan và phương tiện tại hiện trường, ngay sau khi tai nạn giao thông xảy ra đã thu thập được camara ghi nhận diễn biến sự việc, cùng lời trình bày của Trịnh Hoàng T và những người có liên quan. Ghi hiện trường: Chọn hướng khám nghiệm chính từ xã Trí Phải về xã T Phú, lề chuẩn là lề bên phải theo hướng khám nghiệm. Mặt lộ rộng 05m; từ vị trí số 1 (vùng đụng) đo đến vị trí đầu nạn nhân T là 2,5m, đo đến trục bánh sau xe môtô biển số 69D1- xxxxx là 32,65m, đo đến vị trí camara trên mái nhà của tiệm gà nướng H là 4,90m; từ vị trí số 1 đo vào lề chuẩn là 0,8m; vị trí đầu nạn nhân đo vào lề chuẩn là 0,6m; vị trí trục bánh sau xe môtô biển số 69D1-xxxxx đo vào lề chuẩn là 4,05m, trục bánh trước đo vào lề chuẩn là 4,75m; vị trí điểm cột mốc cố định số 4 (trụ điện số 422/121) đo ra lề chuẩn là 16,8m; từ vị trí số 1 nhìn về hướng tây bắc theo Quốc lộ 63 cách 35,8m là vị trí biển báo giao thông chổ ngoặt nguy hiểm vòng bên phải W2016 nằm bên lề chuẩn.
Tại kết luận giám định tử thi số 435/KL-KTHS ngày 11/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C kết luận: Kết mạc mắt nhợt nhạt; vùng trán thái dương đỉnh trái có vết sưng nề bầm tụ máu không rõ ranh giới, trên nền sung; nề có vết rách da; xung quanh vành tai trái bầm tụ máu. Hai lỗ tai còn dính máu khô; bầm tụ máu lan tỏa dưới da đầu, giập cơ thái dương trái; lún võ xương sọ thái dương trái; tụ máu ngoài màng cứng thành khối số lượng nhiều; giập não. Nguyên nhân chết của Nguyễn Thị T do Chấn thương sọ não.
Tại biên bản kiểm tra nồng độ cồn số 01041 ngày 02/9/2023 đối với Trịnh Hoàng T, kết quả thu được 0,000mg/1 lít khí thở, không ghi nhận nồng độ cồn trong hơi thở và biên bản thử nước tiểu ngày 02/9/2023 xác định Trịnh Hoàng T không sử dụng trái phép chất ma túy.
Tại kết luận giám định độc chất số 02/KLGĐĐC-TTPY ngày 22/9/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh C, kết luận: Căn cứ bản kết luận giám định độc chất số HST 307/KLGĐĐC-TTPY.2023 ngày 11/9/2023 của Trung tâm pháp y thành phố Hồ Chí Minh. Kết luận: Nồng độ ethanol (cồn) trong máu toàn phần của anh Trịnh Hoàng Tân: 0,05mg/100mL (theo Quyết định số 320/QĐ-BYT ngày 23/01/2014, chỉ số bình thường <50,23mg/100mL).
Vật chứng của vụ án:
01 xe môtô 02 bánh, nhãn hiệu Yamaha MXKING, màu đỏ-đen, số máy G3E6E0479976, số khung 0750KK012450, biển số đăng ký 69D1-xxxxx, xe đã qua sử dụng, trên xe có dấu trầy xước (được mô tả trong biên bản khám phương tiện); 01 giấy chứng nhận đăng ký xe môtô biển số 69D1-xxxxx do Công an huyện T cấp ngày 24/5/2019, tên chủ xe Trịnh Tú L (bản chính), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã trả lại cho ông L.
01 giấy phép lái xe hạng A1, tên Trịnh Hoàng T số 790189252168 do Sở Giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 21/12/2018 (bản chính), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã trả lại cho T.
01 USB hiệu Kingston DT101 G2, màu đỏ, dung lượng 8G, được niêm phong trong túi niêm phong mã số NS4.2066651, bên trong USB có lưu trữ 01 đoạn video có thời lượng 01 phút 28 giây và 03 ảnh trích từ video có liên quan đến vụ tai nạn, đưa vào hồ sơ vụ án.
Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra, T và gia đình đã khắc phục bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại các khoản chi phí với tổng số tiền 150.000.000 đồng, ông Thái Hoàng M (chồng của bị hại) người đại diện theo ủy quyền của gia đình bị hại, không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự và có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho T.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi của mình gây ra đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nêu và xác định truy tố không oan sai đối với bị cáo. Bị cáo xác định khi điều khiển xe mô tô biển số 69D1-xxxxx vào ngày 01/9/2023 tham gia giao thông, khi đến đoạn đường cong phía trước có xe tải ngược chiều nên bị cáo né vào lề và do thiếu quan sát, không giảm tốc độ nên đụng trúng bị hại dẫn đến tử vong. Sau đó, bị cáo và gia đình có thăm hỏi, chia buồn và khắc phục toàn bộ thiệt hại cho gia đình của bị hại.
Ông M là người đại diện cho bị hại trình bày: Ông M xác định, bị cáo và gia đình khó khăn về kinh tế nhưng có thiện trí khắc phục thiệt hại. Ông M là chồng của bị hại và đại diện cho gia đình đã nhận được số tiền mà gia đình bị cáo khắc phục là 150.000.000 đồng, hiện không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự. Đại diện gia đình có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho Trịnh Hoàng T. Tại phiên tòa, ông M xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo để tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa lỗi và đi lao động để lo cho gia đình.
Ông L là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày: Đối với chiếc xe mô tô biển số 69D1-xxxxx là của ông, ông đã cho Trịnh Hoàng T mượn để sử dụng làm phương tiện đi lại, khi xảy ra tai nạn làm xe bị hư hỏng nhẹ, ông L đã tự sửa chữa, không đặt ra yêu cầu T phải bồi thường thiệt hại.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh C tham gia phiên toà phát biểu: Giữ nguyên bản cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 22 tháng 12 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T về việc truy tố bị cáo Trịnh Hoàng T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự.
Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Trịnh Hoàng T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Xử phạt bị cáo Trịnh Hoàng T từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 02 (hai) năm đến 03 (ba) năm.
Về vật chứng: Các vật chứng thu giữ đã được Cơ quan điều tra Công an huyện T đã hoàn trả cho chủ sở hữu trong quá trình điều tra là phù hợp nên không đề cập xử lý. Đề nghị tịch thu để lưu kèm theo hồ sơ vụ án 01 USB hiệu Kingston DT101 G2, màu đỏ, dung lượng 8G, được niêm phong trong túi niêm phong mã số NS4.2066651, bên trong USB có lưu trữ 01 đoạn video có thời lượng 01 phút 28 giây và 03 ảnh trích từ video có liên quan đến vụ tai nạn.
Trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị cáo và gia đình đã khắc phục xong cho thiệt hại, hiện tại đại diện của bị hại không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự nên không đặt ra xem xét.
Đối với chiếc xe mô tô biển số 69D1-xxxxx khi xảy ra tai nạn bị hư hỏng nhẹ, ông L là chủ xe tự sửa chữa, không đặt ra yêu cầu T phải bồi thường thiệt hại nên không đặt ra xem xét.
Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm thep quy định.
Bị cáo nói lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo đã biết lỗi của mình gây ra, rất mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, đại diện bị hại và những người có liên quan.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, đại diện bị hại và người có liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên được tiến hành trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Xét thấy trong quá trình, điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Trịnh Hoàng T thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố và xác định không oan sai. Cụ thể: Lúc 18 giờ 35 phút ngày 01/9/2023, T trực tiếp điều khiển xe môtô biển số 69D1-xxxxx từ nhà của ông Phan Văn Ghép ở ấp N, xã T Phú đi về nhà của T ở ấp Giao Khẩu, xã T Phú trên tuyến Quốc lộ 63 theo hướng từ xã Trí Phải về xã T Phú đến đoạn đường cong, có biển báo chổ ngoặt nguy hiểm vòng bên phải W201b, thuộc khu vực ấp N, xã T Phú, huyện T, tỉnh C do thiếu quan sát và không giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn, đã đụng trúng vào người chị Nguyễn Thị T đang bị bộ cách lề lộ 0,8m cùng chiều phía trước gây tai nạn, làm cho chị T tử vong đúng theo kết luật giám định. Hành vi của T đã vi phạm tại khoản 1 Điều 11, điểm e khoản 3 Điều 30 Luật Giao thông đường bộ.
Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và đồng thời phù hợp với lời khai của người chứng kiến, camera ghi nhận diễn biến sự việc, biên bản khám nghiệm hiện trường vụ xảy ra tai nạn, biên bản giám định và các chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố. Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua quá trình tranh tụng tại phiên tòa, với lời nhận tội của bị cáo cho thấy, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo T về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, hậu quả làm cho bị hại tử vong. Theo quy định của pháp luật thì mọi hành vi gây tổn hại sức khỏe, thiệt hại tính mạng cho người khác đều bị nghiêm cấm, mặc dù tai nạn xảy ra không mong muốn, nhưng bị cáo chưa chấp hành đúng quy định của Luật giao thông đường bộ, đã điều khiển xe tham gia giao thông không chú ý quan sát, không chấp hành biển báo chổ ngoặt nguy hiểm, không giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn, đã gây tai nạn. Với hành vi trực tiếp gây tai nạn chết người đã tạo nên tâm lý hoang mang của người dân mỗi khi tham gia giao thông, để giảm thiểu tình trạng này cần được xử lý và có mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo gây ra, nhằm răn đe giáo dục, phòng ngừa chung trong xã hội.
[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Tân: Bị cáo T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải; Sau khi gây tai nạn, bản thân bị cáo đã bị thương tích, gia đình khó khăn về kinh tế, nhưng bị cáo T và gia đình đã có thiện chí thăm giếng, tạo mọi điều kiện khắc phục toàn bộ hậu quả về vật chất cho gia đình bị hại nên gia đình bị hại không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự trong vụ tai nạn; Đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn xin bãi nại và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa đại diện của bị hại có ý kiến xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
Xét về nhân thân của bị cáo Tân: Có nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự; Có địa chỉ rõ ràng, bị cáo cũng ý thức được hành vi sai trái của mình trong việc chấp hành quy định của pháp luật khi tham gia giao thông. Nếu không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì cũng không gây nguy hiểm cho xã hội, để tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm của mình đã gây ra, đồng thời cũng thể hiện chính sách nhân đạo, tính khoan hồng của pháp luật nên Hội đồng xét xử có xem xét đến tình tiết trên khi lượng hình, để làm căn cứ quyết định về hình phạt cho bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo T và gia đình đã khắc phục toàn bộ hậu quả về trách nhiệm dân sự cho gia đình bị hại và gia đình bị hại hiện không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông L, không có yêu cầu trách nhiệm bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[6] Về vật chứng vụ án: Các vật chứng thu giữ đã được Cơ quan điều tra Công an huyện T đã hoàn trả cho chủ sở hữu trong quá trình điều tra là phù hợp nên không đề cập xem xét.
Đối với 01 USB hiệu Kingston DT101 G2 đựng trong túi niêm phong mã số NS4.2066651, bên trong USB có lưu trữ 01 đoạn video có thời lượng 01 phút 28 giây và 03 ảnh trích từ video có liên quan đến vụ tai nạn nên tịch thu để lưu kèm theo hồ sơ vụ án.
[7] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải nộp theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 106, khoản 1 Điều 136, 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự. Áp dụng các Điều 47 của Bộ luật hình sự;
Tuyên xử:
Tuyên bố bị cáo Trịnh Hoàng T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Xử phạt bị cáo T 01 (một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 02 (hai) năm, thời hạn được tính kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Trịnh Hoàng T cho Ủy ban nhân dân xã T Phú, huyện T, tỉnh C giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình của Trịnh Hoàng T có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Về vật chứng: Tịch thu để lưu kèm theo hồ sơ vụ án 01 USB hiệu Kingston DT101 G2 đựng trong túi niêm phong mã số NS4.2066651, bên trong USB có lưu trữ 01 đoạn video có thời lượng 01 phút 28 giây và 03 ảnh trích từ video có liên quan đến vụ tai nạn.
Trách nhiệm dân sự: Đại diện cho bị hại và gia đình bị hại hiện không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu trách nhiệm bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Trịnh Hoành T phải nộp 200.000đ (chưa nộp).
Bị cáo, đại diện bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 02/2024/HS-ST
Số hiệu: | 02/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về