TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 33/2022/HS-ST NGÀY 22/04/2022 VỀ TỘI VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xét xử công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số 21/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/HSST-QĐ ngày 14 tháng 4 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Trịnh Minh P (Tên gọi khác: U), sinh ngày 01 tháng 6 năm 1997, tại tỉnh Quảng Trị.
Nơi ĐKHKTT và chổ ở: Thôn HX, xã TÁ, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Thợ cơ khí; trình độ học vấn: 11/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trịnh Minh T, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1956; Gia đình có 07 người con, bị cáo là con út; Vợ: Trương Thị Thùy L, sinh năm 2001; Con: có 02 con, lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2020.
Tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân: Ngày 28/10/2021, Công an thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị đã xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” bằng hình thức phạt tiền, với mức phạt 2.000.000 đồng. Bị cáo chưa thi hành.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/9/2021 sau đó chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Trị cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
2. Phan Đức T (Tên gọi khác: N), sinh ngày 25 tháng 12 năm 2003, tại tỉnh Quảng Trị.
Nơi ĐKHKTT và chổ ở: Thôn HX, xã TÁ, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: không nghề; trình độ học vấn: 6/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: không rõ và bà Phan Thị H, sinh năm 1963; Gia đình có 06 người con, bị cáo là con út; Vợ, con: chưa có.
Tiền án: Không.
Tiền sự: 01 tiền sự. Ngày 05/3/2021, Công an xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng các loại pháo mà không được phép” bằng hình thức phạt tiền với mức phạt 750.000 đồng. Đã thi hành quyết định xử phạt.
Nhân thân: Ngày 28/10/2021, Công an thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị đã xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” bằng hình thức phạt tiền, với mức phạt 750.000 đồng. Bị cáo đã thi hành xong.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 01/9/2021 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
3. Nguyễn Thị H, sinh ngày 20 tháng 12 năm 1966, tại tỉnh Quảng Trị.
Nơi ĐKHKTT và chổ ở: Khu phố ĐA, phường ĐL, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thế H, sinh năm 1944 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1945; Gia đình có 05 người con, bị cáo là con thứ hai; Chồng: Nguyễn Hữu M, sinh năm 1960; Con: có 03 con, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 1993.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 25/11/2021, Công an thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị đã xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Mua tài sản của người khác mà biết rõ tài sản đó do vi phạm pháp luật mà có” bằng hình thức phạt tiền, với mức phạt 5.000.000 đồng. Bị cáo chưa thi hành.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 25/11/2021 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
Nguyên đơn dân sự:
- Công ty cổ phần quản lý và xây dựng giao thông QT; trụ sở đóng tại: Số ** đường Lý Thường Kiệt, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Đắc L - Giám đốc Công ty.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Văn T, sinh năm: 1970; địa chỉ: Khu phố A, thị trấn CL, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị (Giấy ủy quyền ngày 31/8/2021). Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Tổng Công ty xây dựng BĐ - CTCP; trụ sở đóng tại: Số *** đường Trần Nguyên Hãn, phường NN, quận LC, thành phố Hải Phòng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Trọng K - Tổng Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tiên S, sinh năm: 1980; địa chỉ: Tiểu khu B, thị trấn ÁT, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (Giấy ủy quyền ngày 31/8/2021). Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Văn L, sinh năm: 1995; trú tại: Đường Điện Biên Phủ, Khu phố 2, Phường 4, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.
- Bà Trần Thị H, sinh năm: 1964; trú tại: Khu phố 8, Phường 1, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Ông Trịnh Minh T, sinh năm: 1954; trú tại: Thôn Hà Xá, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
- Ông Trần Quang L, sinh năm: 1985; trú tại: Thôn Kim Đâu 2, xã Thanh An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.
- Bà Phan Thị H, sinh năm: 1963; trú tại: Thôn Hà Xá, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Phan Đức T: Bà Lê Đỗ Diệu H - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do không có tiền tiêu xài cá nhân, Trịnh Minh P (sinh năm: 1997) đã rủ Phan Đức T (sinh năm: 2003, cùng trú tại: Thôn HX, xã TÁ, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) đi trộm cắp các thanh lan can và trụ cầu trên địa bàn thành phố Đông Hà và huyện Cam Lộ. Cụ thể như sau:
Vụ thứ 1: Vào khoảng 22h00’ ngày 12/7/2021, P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 chở T đến cầu chui Khe Mây đường Lê Thánh Tông thuộc Khu phố 7, Phường 3, thành phố Đông Hà. Tại đây, P và T dùng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 01 (một) trụ lan can, cao 67cm, mặt dưới rộng nhất 22cm, bề ngang 15cm; 01 (một) thanh tay vịn lan can loại ống có kích thước (210 x 11) cm và 02 (hai) thanh tay vịn lan can loại ống, mỗi thanh tay vịn có kích thước (210 x 9,5) cm, đều làm bằng hợp kim nhôm ở hành lang bên phải tuyến hướng từ đường Trần Bình Trọng đi đường Nguyễn Đình Chiểu. Sau khi lấy trộm được tài sản, các đối tượng mang đến bán cho Nguyễn Thị H (sinh năm 1966, trú tại: khu phố ĐÁ, phường ĐL, thành phố Đông Hà). Số tài sản trên có trọng lượng 26 kilograms nên Hòa đồng ý mua với giá 800.000 đồng . Có được số tiền trên, P và T chia nhau tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá số 74/KL-HĐĐGTS ngày 23/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 01 trụ lan can cầu, có kích thước cao 67cm, mặt dưới rộng nhất 22cm, bề ngang 15cm; 01 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 210 cm x 11 cm và 02 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, mỗi thanh tay vịn có kích thước 210cm x 9,5cm là 6.310.400 đồng.
Vụ thứ 2: Vào khoảng 22h00’ ngày 14/7/2021, P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 đi đến cầu Lập Thạch thuộc Khu phố 5, phường Đông Lễ, thành phố Đông Hà. Tại đây, P sử dụng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 02 (hai) thanh tay vịn lan can loại ống, mỗi thanh tay vịn có kích thước (205 x 9,5) cm và 02 (hai) thanh tay vịn lan can loại ống, mỗi thanh tay vịn có kích thước (250 x 9,5) cm, đều làm bằng hợp kim nhôm ở phía cuối hai bên thành cầu hướng từ đường Đặng Dung đi lên cầu. Sau khi lấy trộm được tài sản, P mang đến bán cho Hòa. Số tài sản trên có trọng lượng 23 kilograms nên H đồng ý mua với giá 700.000 đồng. Có được số tiền trên, P tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá số 84/KL-HĐĐGTS ngày 30/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 02 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, mỗi thanh tay vịn có kích thước 205cm x 9,5cm và 02 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, mỗi thanh tay vịn có kích thước 250cm x 9,5cm là 7.148.960 đồng.
Vụ thứ 3: Vào khoảng 20h00’ ngày 15/7/2021, P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 đi đến cầu chui Khe Mây thuộc Khu phố 7, phường 3, thành phố Đông Hà. Tại đây, P sử dụng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 05 (năm) thanh tay vịn lan can loại ống làm bằng hợp kim nhôm, mỗi thanh tay vịn có kích thước (210 x 9,5) cm ở hành lang bên phải tuyến hướng từ đường Trần Bình Trọng đi đường Nguyễn Đình Chiểu. Sau khi lấy trộm được tài sản, Trịnh Minh P mang đến bán cho H. Số tài sản trên có trọng lượng 33 kilograms nên Nguyễn Thị H đồng ý mua với giá 1.000.000 đồng. Có được số tiền trên, P tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá số 75/KL-HĐĐGTS ngày 23/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 05 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, mỗi thanh tay vịn có kích thước 210cm x 9,5cm là 7.795.200 đồng.
Vụ thứ 4: Vào khoảng 23h00’ ngày 19/7/2021, P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 chở T đi đến cầu Lập Thạch thuộc Khu phố 5, phường Đông Lễ, thành phố Đông Hà. Tại đây, P và T dùng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 01 (một) thanh tay vịn lan can loại ống có kích thước (205 x 11) cm và 01 (một) thanh tay vịn lan can loại ống có kích thước (250 x 11) cm, đều làm bằng hợp kim nhôm ở đầu cầu phía bên phải tuyến hướng từ đường Đặng Dung đi lên cầu. Sau khi lấy trộm được tài sản, các đối tượng mang đến bán cho H. Số tài sản trên có trọng lượng 23 kilograms nên Nguyễn Thị H đồng ý mua với giá 600.000 đồng. Có được số tiền trên, P và T chia nhau tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá số 85/KL-HĐĐGTS ngày 01/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 01 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 205cm x 11cm và 01 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 250cm x 11cm là 4.468.000 đồng.
Vụ thứ 5: Vào khoảng 22h00’ ngày 20/7/2021, P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 đi đến cầu chui Khe Mây thuộc Khu phố 7, phường 3, thành phố Đông Hà. Tại đây, P sử dụng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 01 (một) trụ lan can, cao 67cm, mặt dưới rộng nhất 22cm, bề ngang 15cm và 01 (một) thanh tay vịn lan can cầu loại ống có kích thước (210 x 11) cm, đều làm bằng hợp kim nhôm ở hành lang phía bên trái tuyến hướng từ đường Trần Bình Trọng đi đường Nguyễn Đình Chiểu. Sau khi lấy trộm được tài sản, P mang đến bán cho H. Số tài sản trên có trọng lượng 20 kilograms nên Nguyễn Thị H đồng ý mua với giá 600.000 đồng. Có được số tiền trên, P tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá số 76/KL-HĐĐGTS ngày 24/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 01 trụ lan can cầu, có kích thước cao 67cm, mặt dưới rộng nhất 22cm, bề ngang 15cm và 01 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 210cm x11cm là 3.192.320 đồng.
Vụ thứ 6: Vào khoảng 22h00’ ngày 23/7/2021, P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 đi đến cầu cống hộp (3x4x5)m km4+403 thuộc khu phố 4, phường Đông Thanh, thành phố Đông Hà. Tại đây, P sử dụng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 02 (hai) thanh tay vịn lan can loại ống, mỗi thanh tay vịn có kích thước (160 x 9,5) cm và 11 (mười một) thanh tay vịn lan can cầu loại ống, mỗi tay vịn có kích thước (194 x 9,5) cm, tất cả đều làm bằng hợp kim nhôm ở hành lang phía bên trái tuyến hướng từ thành phố Đông Hà đi huyện Cam Lộ. Sau khi lấy trộm được tài sản, P mang đến bán cho Nguyễn Thị H. Số tài sản trên có trọng lượng 70 kilograms nên Nguyễn Thị H đồng ý mua với giá với giá 2.100.000 đồng. Có được số tiền trên, P tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá số 79/KL-HĐĐGTS ngày 27/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 02 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, mỗi thanh tay vịn có kích thước 160cm x 9,5cm và 11 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, mỗi tay vịn có kích thước 194cm x 9,5cm là 18.218.496 đồng.
Vụ thứ 7: Vào khoảng 23h00’ ngày 26/7/2021, P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 chở T đi đến cầu cống hộp (3x4x5)m km4+403 thuộc khu phố 4, phường Đông Thanh, thành phố Đông Hà. Tại đây, P và T dùng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 01 (một) thanh tay vịn lan can loại ống có kích thước (160 x 9,5) cm và 01 (một) thanh tay vịn lan can cầu loại ống có kích thước (194 x 9,5) cm, tất cả đều làm bằng hợp kim nhôm ở hành lang phía bên phải tuyến hướng từ thành phố Đông Hà đi huyện Cam Lộ. Sau khi lấy trộm được tài sản, các đối tượng mang đến bán cho H. Số tài sản trên có trọng lượng 15 kilograms. Quá trình mua bán, H thấy P và T thường bán tài sản vào khoảng thời gian nửa đêm, số tài sản trên là hàng đặc chủng không có trên thị trường tỉnh Quảng Trị nên H nghi ngờ số tài sản này là do trộm cắp mà có. H nói với Trịnh Minh P và Phan Đức T rằng: “Mấy cháu đừng lấy nữa, họ thấy mất nhiều họ báo công an, nếu bị công an bắt thì đừng khai dì ra nghe!”. Sau khi H nói như vậy thì P và T đồng ý. Đến lúc này thì H biết rõ đây là số tài sản do P và T thực hiện hành vi trộm cắp mà có. Nhưng vẫn đồng ý mua với giá 500.000 đồng. Số tiền bán được P và T đã tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá số 80/KL-HĐĐGTS ngày 28/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 01 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 160cm x 9,5cm và 01 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 194cm x 9,5cm là 2.628.096 đồng.
Vụ thứ 8: Vào khoảng 22h00’ ngày 29/7/2021, P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 đi đến cầu cống hộp (3x4x5)m km4+403 thuộc khu phố 4, phường Đông Thanh, thành phố Đông Hà. Tại đây, P sử dụng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 01 (một) thanh tay vịn lan can loại ống có kích thước (160 x 9,5) cm và 10 (mười) thanh tay vịn lan can cầu loại ống, mỗi tay vịn có kích thước (194 x 9,5)cm, tất cả đều làm bằng hợp kim nhôm ở hành lang phía bên phải tuyến hướng từ thành phố Đông Hà đi huyện Cam Lộ. Sau khi lấy trộm được tài sản, P mang đến bán cho H. Số tài sản trên có trọng lượng 53 kilograms, mặc dù biết rõ đây là tài sản do trộm cắp mà có nhưng H vẫn đồng ý mua với giá 1.600.000 đồng. Có được số tiền trên, P tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá số 81/KL-HĐĐGTS ngày 28/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 01 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 160cm x 9,5cm và 10 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, mỗi tay vịn có kích thước 194cm x 9,5cm là 15.478.656 đồng.
Vụ thứ 9: Vào khoảng 22h00’ ngày 04/8/2021, P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 đi đến cầu chui Khe Mây thuộc Khu phố 7, phường 3, thành phố Đông Hà. Tại đây, P sử dụng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 01 (một) trụ lan can, cao 67cm, mặt dưới rộng nhất 22cm, bề ngang 15cm; 01 (một) thanh tay vịn lan can cầu loại ống có kích thước (210 x 11) cm và 04 (bốn) thanh tay vịn lan can cầu loại ống, mỗi thanh tay vịn có kích thước (210 x 9,5) cm, tất cả đều làm bằng hợp kim nhôm ở hành lang phía bên trái tuyến hướng từ đường Trần Bình Trọng đi đường Nguyễn Đình Chiểu. Sau khi lấy trộm được tài sản, P mang đến bán cho H. Số tài sản trên có trọng lượng 43 kilograms, mặc dù biết rõ đây là tài sản do trộm cắp mà có nhưng H vẫn đồng ý mua với giá 1.300.000 đồng. Có được số tiền trên, Trịnh Minh P tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá số 77/KL-HĐĐGTS ngày 24/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 01 trụ lan can cầu, có kích thước cao 67cm, mặt dưới rộng nhất 22cm, bề ngang 15cm; 01 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 210cm x 11cm và 04 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, mỗi thanh tay vịn có kích thước 210cm x 9,5cm là 9.382.760 đồng.
Vụ thứ 10: Vào khoảng 23 giờ 00’ ngày 12/8/2021, P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 chở T đến cầu chui Khe Mây thuộc Khu phố 7, phường 3, thành phố Đông Hà. Tại đây, P và T dùng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 02 (hai) trụ lan can, cao 67cm, mặt dưới rộng nhất 22cm, bề ngang 15cm; 02 (hai) thanh tay vịn lan can loại ống có kích thước (210x11) cm; 02 (hai) thanh tay vịn lan can loại ống có kích thước (210x9.5) cm, tất cả đều làm bằng hợp kim nhôm ở hành lang phía bên trái tuyến hướng từ đường Trần Bình Trọng đi đường Nguyễn Đình Chiểu. Sau khi lấy trộm tài sản, P và T mang đến bán cho H. Số tài sản trên có trọng lượng 46 kilograms mặc dù biết rõ đây là tài sản do trộm cắp mà có nhưng H vẫn đồng ý mua với giá 1.400.000 đồng . Có được số tiền trên, P và T chia nhau tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá số 72/KL-HĐĐGTS ngày 01/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 02 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm phía trên có kích thước 210cm x 11cm; 02 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm phía dưới có kích thước 210cm x 9,5cm và 02 trụ lan can cầu, mỗi trụ lan can cao 67cm, mặt dưới rộng nhất 22cm, bề ngang 15cm là 9.456.640 đồng.
Vụ thứ 11: Vào khoảng 22h00’ ngày 14/8/2021, P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 đi đến cầu chui Khe Mây thuộc Khu phố 7, phường 3, thành phố Đông Hà. Tại đây, P sử dụng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 01 (một) trụ lan can, cao 67cm, mặt dưới rộng nhất 22cm, bề ngang 15cm và 01 (một) thanh tay vịn lan can cầu loại ống có kích thước (210 x 11) cm, tất cả đều làm bằng hợp kim nhôm ở hành lang phía bên phải tuyến hướng từ đường Trần Bình Trọng đi đường Nguyễn Đình Chiểu. Sau khi lấy trộm được tài sản, P mang đến bán cho H. Số tài sản trên có trọng lượng 20 kilograms, mặc dù biết rõ đây là tài sản do trộm cắp mà có nhưng H vẫn đồng ý mua với giá 600.000 đồng. Có được số tiền trên, P tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá số 78/KL-HĐĐGTS ngày 27/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 01 trụ lan can cầu, có kích thước cao 67cm, mặt dưới rộng nhất 22cm, bề ngang 15cm và 01 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 210cm x 11cm là 3.176.840 đồng.
Vụ thứ 12: Vào khoảng 22h00’ ngày 15/8/2021, P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 đi đến cầu cống hộp (3x4x5)m km4+403 thuộc khu phố 4, phường Đông Thanh, thành phố Đông Hà. Tại đây, P sử dụng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 01 (một) thanh tay vịn lan can loại ống có kích thước (160 x 11) cm và 01 (một) thanh tay vịn lan can loại ống có kích thước (194 x 11) cm, tất cả đều làm bằng hợp kim nhôm ở hành lang phía bên phải tuyến hướng từ thành phố Đông Hà đi huyện Cam Lộ. Sau khi lấy trộm được tài sản, P mang đến bán cho H. Số tài sản trên có trọng lượng 20 kilograms, mặc dù biết rõ đây là tài sản do trộm cắp mà có nhưng H vẫn đồng ý mua với giá 600.000 đồng. Có được số tiền trên, P tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá số 82/KL-HĐĐGTS ngày 29/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 01 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 160cm x 11cm và 01 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 194cm x 11cm là 3.269.190 đồng.
Vụ thứ 13: Vào khoảng 23h00’ ngày 28/8/2021, Trịnh Minh P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 chở Phan Đức T đi đến cầu Lập Thạch thuộc Khu phố 5, phường Đông Lễ, thành phố Đông Hà. Tại đây, Trịnh Minh P và Phan Đức T dùng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 01 (một) thanh tay vịn lan can loại ống có kích thước (205 x 9,5) cm và 01 (một) thanh tay vịn lan can loại ống có kích thước (250 x 9,5) cm, tất cả đều làm bằng hợp kim nhôm ở đầu cầu phía bên phải tuyến hướng từ đường Đặng Dung đi lên cầu.
Tại kết luận định giá số 87/KL-HĐĐGTS ngày 05/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 01 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 205cm x 9,5cm và 01 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 250cm x 9,5cm là 3.558.100 đồng.
Vụ thứ 14: Sau khi lấy trộm được tài sản tại cầu Lập Thạch, khoảng 01h00’ ngày 29/8/2021, P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 chở T đi đến cầu cống hộp (3x4x5) m km4+403 thuộc khu phố 4, phường Đông Thanh, thành phố Đông Hà. Tại đây, P và T tiếp tục dùng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận rồi lấy trộm 01 (một) thanh tay vịn lan can loại ống có kích thước (160 x 11) cm và 02 (hai) thanh tay vịn lan can cầu loại ống, mỗi thanh tay vịn có kích thước (194 x 11) cm phía bên trái tuyến hướng từ thành phố Đông Hà đi huyện Cam Lộ. Sau đó, các đối tượng mang toàn bộ tài sản vừa lấy trộm ở cầu Lập Thạch và cầu cống hộp (3x4x5) m km4+403 đến bán cho H. Số tài sản trên có trọng lượng 30 kilograms, mặc dù biết rõ đây là tài sản do trộm cắp mà có nhưng H vẫn đồng ý mua với giá 900.000 đồng. Số tiền trên P và T chia nhau tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá số 83/KL-HĐĐGTS ngày 29/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 01 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 160cm x 11cm và 02 thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, mỗi thanh tay vịn có kích thước 194cm x 11cm là 5.060.780 đồng.
Vào cuối tháng 7/2021, P còn thực hiện thêm 02 lần trộm cắp tài sản tại cầu cống hộp (3x4x2,5)m Km5+735,81 thuộc thôn Phú Ngạn, xã Thanh An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, cụ thể như sau:
Vụ thứ 1: Vào khoảng 0h00’ một ngày cuối tháng 7/2021, P điều khiển xe mô tô 74G1-030.51 đi đến cầu cống hộp (3x4x2,5)m Km5+735,81 thuộc thôn Phú Ngạn, xã Thanh An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Tại đây, P sử dụng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 08 (tám) thanh tay vịn lan can loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước (194 x 9,5) cm. Sau khi lấy trộm được tài sản, P mang đến bán cho H. Số tài sản trên có trọng lượng 40 kilograms, mặc dù biết rõ đây là tài sản do trộm cắp mà có nhưng H vẫn đồng ý mua với giá 1.200.000 đồng. Có được số tiền trên, P tiêu xài cá nhân hết.
Vụ thứ 2: Vào khoảng 0h00’ ngày hôm sau, P điều khiển xe mô tô 74G1- 030.51 đi đến cầu cống hộp (3x4x2,5) m Km5+735,81 thuộc thôn Phú Ngạn, xã Thanh An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Tại đây, P sử dụng công cụ đã chuẩn bị sẵn lén lút tháo ốc vít cố định các bộ phận trên thành lan can cầu rồi lấy trộm 12 (mười hai) thanh tay vịn lan can loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước (194 x 9,5) cm. Sau khi lấy trộm được tài sản, P mang đến bán cho H. Số tài sản trên có trọng lượng 57 kilograms, mặc dù biết rõ đây là tài sản do trộm cắp mà có nhưng H vẫn đồng ý mua với giá 1.700.000 đồng. Có được số tiền trên, P tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá số 24/KL-ĐGTS ngày 13/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Cam Lộ kết luận: trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 20 tay vịn ống bằng hợp kim nhôm (D=95mm; L=1,94 md; SL=20 ống) là 25.140.000 đồng.
Ngoài những vụ trộm cắp tài sản nêu trên, thì ngày 07/8/2021, Trịnh Minh P và Phan Đức T có thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại cầu Sông Hiếu, ngày 22/8/2021 và ngày 27/8/2021, Trịnh Minh P đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại cầu Sông Hiếu và cầu Lập Thạch. Những lần trộm cắp tài sản này, tài sản bị chiếm đoạt đều có trị giá dưới 2.000.000 đồng, các bị can đều chưa có tiền án tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản nên không cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy, ngày 28/10/2021, Công an thành phố Đông Hà đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Trịnh Minh P và Phan Đức T.
Sau khi mua tài sản của P và T với giá 30.000 đồng/kg. Nguyễn Thị H đã bán lại cho Nguyễn Văn L (sinh năm: 1995, trú tại: khu phố A, phường B, thành phố Đông Hà), Trần Thị H (sinh năm: 1964, trú tại: khu phố A, phường B, thành phố Đông Hà) và những người thu mua phế liệu liên tỉnh (không rõ nhân thân, lai lịch) với giá 35.000 đồng. Sau khi biết tài sản mình mua là do phạm tội mà có, anh L đã giao nộp số tài sản còn lại cho Cơ quan điều tra. Chị H đã bán số tài sản đó cho một người thu mua phế liệu khác (không rõ nhân thân, lai lịch).
Vật chứng, tài sản thu giữ gồm:
- 01(một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ, biển kiểm soát 74G1- 030.51, số khung: RLCS5C630CY618923, số máy: 5C63-618979, không kiểm tra chi tiết bên trong, đã qua sử dụng.
- 01 (một) chiếc cờ lê, loại 24mm, hiệu YELT, màu bạc, dài 28cm, đã qua sử dụng.
- 01 (một) chiếc mỏ lết, hiệu HERO, màu nâu, dài 29,5cm, đã qua sử dụng.
- 01 (một) sợi dây cao su màu xanh, có móc sắt ở hai đầu, dài 150cm, đã qua sử dụng.
- 01 (một) sợi dây cao su màu cam, có móc sắt ở hai đầu, dài 150cm, đã qua sử dụng.
- 03 (ba) thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, mỗi tay vịn có kích thước 194cm x 11cm, đã qua sử dụng.
- 02 (hai) thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, mỗi tay vịn có kích thước 210cm x 11cm, đã qua sử dụng.
- 01 (một) thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 205cm x 11cm, đã qua sử dụng.
- 01 (một) thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 205cm x 9,5cm, đã qua sử dụng.
- 01 (một) thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 250cm x 11cm, đã qua sử dụng.
- 01 (một) thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm có kích thước 250cm x 9,5cm, đã qua sử dụng.
- 07 (bảy) trụ lan can cầu, có kích thước cao 67cm, mặt dưới rộng nhất 22cm, bề ngang 15cm, đã qua sử dụng.
Về trách nhiệm dân sự:
- Công ty cổ phần quản lý và xây dựng giao thông QT yêu cầu bồi thường dân sự với số tiền 202.573.000 đồng (Hai trăm lẻ hai triệu năm trăm bảy mươi ba nghìn đồng);
- Tổng công ty xây dựng BĐ yêu cầu bồi thường dân sự với số tiền 33.025.000 đồng (Ba mươi ba triệu không trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
- Đối với Nguyễn Văn L, Trần Thị H và Trịnh Minh T là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, không yêu cầu bồi thường dân sự.
Bản cáo trạng số 24/CT-VKS-ĐH ngày 24/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo Trịnh Minh P về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; bị cáo Phan Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và bị cáo Nguyễn Thị H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Minh P phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; bị cáo Phan Đức T phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.
Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt Trịnh Minh P từ 42 đến 48 tháng tù.
Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự xử phạt Phan Đức T từ 12 đến 15 tháng tù.
Áp dụng: khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Thị H từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị áp dụng Điều 288, Điều 357, Điều 468, Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 588, Điều 589 Bộ luật dân sự, buộc các bị cáo Trịnh Minh P và Phan Đức T phải liên đới bồi thường cho Công ty cổ phần quản lý và xây dựng giao thông QT số tiền 202.573.000; bồi thường cho Tổng công ty xây dựng BĐ số tiền 33.025.000 đồng. Đối với ý kiến của Công ty cổ phần quản lý và xây dựng giao thông QT buộc các bị cáo phải hoàn trả lại nguyên trạng hệ thống lan can tay vịn các cầu, cống đã gây ra và bàn giao lại cho Công ty quản lý, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà không đồng ý bởi vì các bị cáo không đủ khả năng tự mình thực hiện khắc phục hậu quả do mình gây ra. Cụ thể, buộc bị cáo Trịnh Minh P phải bồi thường số tiền 170.573.000 đồng, bị cáo Phan Đức T phải bồi thường số tiền 32.000.000 đồng cho Công ty cổ phần quản lý và xây dựng giao thông QT. Buộc bị cáo P phải bồi thường số tiền 24.768.750 đồng, bị cáo T phải bồi thường số tiền 8.256.250 đồng cho Tổng công ty xây dựng BĐ.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy - 01 (một) chiếc cờ lê, loại 24mm, hiệu YELT, màu bạc, dài 28cm; 01 (một) chiếc mỏ lết, hiệu HERO, màu nâu, dài 29,5cm; 01 (một) sợi dây cao su màu xanh, có móc sắt hai đầu, dài 150cm;
01 (một) sợi dây cao su màu cam, có móc sắt hai đầu, dài 150cm.
Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 1.770.000 đồng (Một triệu bảy trăm bảy mươi ngàn đồng) thu lợi bất chính của bị cáo Nguyễn Thị H.
Ý kiến bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị cáo Phan Đức T:
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo Phan Đức T về tội "Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội. Đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét áp dụng cho bị cáo hưởng các tình tiết được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 và áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng tình tiết: Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, khi phạm tội bị cáo chưa thành niên. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Phan Đức T ở mức khởi điểm mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà đề nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, của bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án:
Có đủ cơ sở để kết luận: Từ ngày 12/7/2021 đến ngày 29/8/2021, lợi dụng sự sơ hở của cơ quan quản lý tài sản, Trịnh Minh P và Phan Đức T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt các thanh lan can và trụ thành cầu trên địa bàn thành phố Đông Hà và huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Trong đó Trịnh Minh P đã 16 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt, tổng giá trị tài sản P đã chiếm đoạt là 124.284.438 đồng. Phan Đức T đã có 06 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt cùng với Trịnh Minh P, tổng giá trị tài sản T đã chiếm đoạt là 31.482.016 đồng. Tại các bản kết luận định giá tài sản số 74/KLĐG ngày 23/9/2021, số 84/KLĐG ngày 30/9/2021, số 75/KLĐG ngày 23/9/2021, số 85/KLĐG ngày 01/10/2021, số 76/KLĐG ngày 24/9/2021, số 79/KLĐG ngày 27/9/2021, số 80/KLĐG ngày 28/9/2021, số 81/KLĐG ngày 28/9/2021, số 77/KLĐG ngày 24/9/2021, số 72/KLĐG ngày 01/9/2021, số 78/KLĐG ngày 27/9/2021, số 82/KLĐG ngày 29/9/2021, số 87/KLĐG ngày 05/10/2021 và số 83/KLĐG ngày 29/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: Trị giá các tài sản tại thời điểm chiếm đoạt là 99.144.438 đồng. Tại bản kết luận định giá tài sản số 24/KLĐG ngày 13/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cam Lộ kết luận: Trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt của 20 tay vịn ống hợp kim nhôm là 25.140.000 đồng. Như vậy, hành vi của Trịnh Minh P và Phan Đức T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự.
Mặc dù không có hứa hẹn trước nhưng từ lần mua tài sản của Trịnh Minh P và Phan Đức T vào ngày 26/7/2021 trở đi, Nguyễn Thị H biết rõ những tài sản do P và T đưa đến bán cho mình là tài sản do thực hiện hành vi trộm cắp mà có. Tài sản Nguyễn Thị H đã tiêu thụ là 354 kilograms trị giá với số tiền 77.151.062 đồng, trong đó, bị cáo H đã thu lợi bất chính số tiền 1.770.000 đồng.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo Trịnh Minh P về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; bị cáo Phan Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và bị cáo Nguyễn Thị H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.
[3] Xét về tính chất, hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của Trịnh Minh P, Phan Đức T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân, làm mất ổn định an ninh, trật tự tại địa phương. Hành vi của Nguyễn Thị H đã xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, gây khó khăn đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình nhưng cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mới có tác dụng giáo dục, răn đe trong việc phòng, chống tội phạm.
[4] Xét vai trò của các bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội có đồng phạm, nhưng mang tính chất giản đơn, vai trò của các bị cáo được xác định như sau: Trịnh Minh P là người khởi xướng, chuẩn bị các công cụ, phương tiện, tích cực thực hiện hành vi chiếm đoạt. Phan Đức T là người tích cực giúp sức trong việc chiếm đoạt tài sản.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Trịnh Minh P, Phan Đức T và Nguyễn Thị H đã nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội nên phải chịu tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo Trịnh Minh P là người khởi xướng, rủ rê Phan Đức T thực hiện hành vi phạm tội khi bị cáo T chưa đủ 18 tuổi nên phải chịu tình tiết “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình do đó cần áp dụng tình tiết “Người phạm tội đã thành khẩn khai báo”. Quá trình làm việc tại Cơ quan điều tra, Trịnh Minh P đã tự thú về những hành vi đã thực hiện nên áp dụng tình tiết “Người phạm tội tự thú”; bố, mẹ của bị cáo P được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến. Bị cáo Phan Đức T đã tác động mẹ ruột của mình nộp lại số tiền bồi thường là 18.456.250 đồng để khắc phục một phần hậu quả do mình gây ra, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo T chưa đủ 18 tuổi. Bị cáo Nguyễn Thị H đã nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 1.770.000 đồng thể hiện ý thức ăn năn hối cải của mình, bố mẹ của bị cáo H được Nhà nước tặng thường Huân chương kháng chiến, trong quá trình tham gia công tác xã hội tại địa phương, bị cáo H được Bộ trưởng Bộ Y tế tặng thưởng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Dân số”. Vì vậy, cần áp dụng các điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trịnh Minh P; áp dụng các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phan Đức T; áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị H để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
[7] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị cáo Trịnh Minh P, Phan Đức T có nhân thân tốt, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự nhưng bị cáo T phải chịu một tình tiết tăng nặng, bị cáo P phải chịu hai tình tiết tăng nặng tại khoản 1 Điều 52. Tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt là thành lan can và trụ cầu gây nguy hiểm cho hoạt động giao thông, gây dư luận hoang mang lo lắng cho nhân dân trên địa bàn. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt tù để cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.
Bị cáo Nguyễn Thị H phải chịu một tình tiết tăng nặng, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ theo Điều 51 Bộ luật hình sự, số tiền thu lợi bất chính không lớn, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ sức răn đe, giáo dục.
[8] Ngoài ra, ngày 07/8/2021, Trịnh Minh P và Phan Đức T có thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại cầu Sông Hiếu, ngày 22/8/2021 và ngày 27/8/2021, Trịnh Minh P đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại cầu Sông Hiếu và cầu Lập Thạch. Những lần trộm cắp tài sản này, tài sản bị chiếm đoạt đều có trị giá dưới 2.000.000 đồng, các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản nên không cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Công an thành phố Đông Hà đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Trịnh Minh P, Phan Đức T và Nguyễn Thị H có cơ sở.
[9] Đối với Nguyễn Văn L, Trần Thị H là người mua lại những tài sản từ bị cáo H nhưng không biết đó là tài sản do phạm tội mà có.nên Cơ quan điều tra không xử lý trách nhiệm hình sự là có cơ sở.
[10] Về trách nhiệm dân sự:
- Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Công ty cổ phần quản lý và xây dựng giao thông QT có văn bản yêu cầu các bị cáo Trịnh Minh P, Phan Đức T bồi thường thiệt hại với số tiền 202.573.000 đồng. Tuy nhiên, tại văn bản đề ngày 20/4/2022, Công ty cổ phần quản lý và xây dựng giao thông QT có ý kiến buộc các bị cáo phải hoàn trả lại nguyên trạng hệ thống lan can tay vịn các cầu, cống đã gây ra và bàn giao lại cho Công ty quản lý. Xét thấy, hệ thống lan can tay vịn các cầu, cống bị chiếm đoạt là mặt hàng hợp kim nhôm đặc chủng, không bán trên thị trường, việc lắp đặt phải tuân theo nguyên tắc, quy trình, kỹ thuật của cơ quan chuyên môn nên những cá nhân không thể tự mình thực hiện việc lắp đặt, hoàn trả lại nguyên trạng. Vì vậy, cần buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường bằng tiền cho Công ty đảm bảo các điều kiện để thi hành bản án. Bị cáo P tự mình thực hiện 09 lần chiếm đoạt và tham gia cùng với bị cáo T 04 lần chiếm đoạt tài sản của Công ty cổ phần quản lý và xây dựng giao thông QT, do đó trách nhiệm bồi thường của P phải cao hơn T. Tại phiên tòa, bị cáo P và T thỏa thuận mức bồi thường cho Công ty cổ phần quản lý và xây dựng giao thông QT, trong đó bị cáo P phải bồi thường số tiền 170.573.000 đồng, bị cáo T phải bồi thường số tiền 32.000.000 đồng.
- Tổng công ty xây dựng BĐ yêu cầu bồi thường dân sự với số tiền 33.025.000 đồng. Tại phiên tòa, các bị cáo thỏa thuận mức bồi thường cho Tổng công ty xây dựng BĐ, trong đó bị cáo P phải bồi thường số tiền 24.768.750 đồng, bị cáo T phải bồi thường số tiền 8.256.250 đồng.
- Đối với Nguyễn Văn L, Trần Thị H và Trịnh Minh T là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, không yêu cầu bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[11] Tiếp tục tạm giam bị cáo Trịnh Minh P thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.
[12] Về vật chứng:
- Trong quá trình giải quyết vụ án, bị cáo Nguyễn Thị H đã thừa nhận thu lợi bất chính với số tiền 1.770.000 đồng. Bị cáo H đã tự nguyện nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.
- Ngày 25/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà ra Quyết định xử lý vật chứng số 76/QĐ bằng hình thức trả lại 06 (sáu) trụ lan can cầu, cao 67cm, mặt dưới rộng nhất 22cm, bề ngang 15cm, đã qua sử dụng;
02 (hai) thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, mỗi thanh tay vịn có kích thước (210 x 11) cm, đã qua sử dụng; 03 (ba) thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, mỗi thanh tay vịn có kích thước (194 x 11) cm, đã qua sử dụng cho chủ sở hữu hợp pháp là Công ty cổ phần quản lý và xây dựng giao thông QT.
- Ngày 26/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà ra Quyết định xử lý vật chứng số 13/QĐ bằng hình thức trả lại: 01 (một) trụ lan can cầu, cao 67cm, mặt dưới rộng nhất 22cm, bề ngang 15cm, đã qua sử dụng;
01 (một) thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, có kích thước (250 x 9,5) cm, đã qua sử dụng; 01 (một) thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, có kích thước (205 x 11) cm, đã qua sử dụng; 01 (một) thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, có kích thước (205 x 9,5) cm, đã qua sử dụng; 01 (một) thanh tay vịn lan can cầu loại ống làm bằng hợp kim nhôm, có kích thước (250 x 11) cm, đã qua sử dụng cho chủ sở hữu hợp pháp là Tổng công ty xây dựng BĐ.
- Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ, mang biển kiểm soát 74G1- 030.51, số khung: RLCS5C630CY618923, số máy: 5C63- 618979, đã qua sử dụng do ông Trịnh Minh T (sinh năm 1954, trú tại: Thôn Hà Xá, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) đứng tên chủ sở hữu. Việc bị cáo Trịnh Minh P sử dụng chiếc xe mô tô trên làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nhưng ông T không biết, do đó Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an thành phố Đông Hà đã trả lại chiếc xe trên cho ông Trịnh Minh T là đúng quy định.
- Đối với 01 (một) chiếc cờ lê, loại 24mm, hiệu YELT, màu bạc, dài 28cm;
01 (một) chiếc mỏ lết, hiệu HERO, màu nâu, dài 29,5cm; 01 (một) sợi dây cao su màu xanh, có móc sắt ở hai đầu, dài 150cm; 01 (một) sợi dây cao su màu cam, có móc sắt ở hai đầu, dài 150cm là công cụ để bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.
[13] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định. Bị cáo Trịnh Minh P và Phan Đức T phải chịu án phí dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Các bị cáo Trịnh Minh P (Tên gọi khác: U); Phan Đức T (Tên gọi khác: N) phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”;
- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm g, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trịnh Minh P 42 (Bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam ngày 01 tháng 9 năm 2021.
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 90; Điều 91; Điều 98; khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự, xử phạt Phan Đức T 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thị H 55.000.000 (Năm mươi lăm) triệu đồng.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 288, Điều 357, Điều 468, Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 588, Điều 589 Bộ luật dân sự:
- Buộc bị cáo Trịnh Minh P, Phan Đức T phải liên đới bồi thường cho Công ty cổ phần quản lý và xây dựng giao thông QT số tiền 202.573.000 đồng (Hai trăm linh hai triệu năm trăm bảy mươi ba ngàn đồng). Trong đó, bị cáo Trịnh Minh P phải bồi thường 170.573.000 đồng (Một trăm bảy mươi triệu năm trăm bảy mươi ba ngàn đồng); bị cáo Phan Đức T phải bồi thường 32.000.000 đồng (Ba mươi hai triệu đồng) nhưng được khấu trừ số tiền đã nộp là 10.200.000 đồng theo Biên lai thu tiền số BB/2021/0000197 ngày 31/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà, bị cáo T phải tiếp tục bồi thường thêm số tiền 21.800.000 đồng (Hai mươi mốt triệu tám trăm ngàn đồng).
- Buộc bị cáo Trịnh Minh P, Phan Đức T phải liên đới bồi thường cho Tổng công ty xây dựng BĐ với số tiền 33.025.000 đồng (Ba mươi ba triệu không trăm hai mươi lăm ngàn đồng). Trong đó, bị cáo Trịnh Minh P phải bồi thường với số tiền 24.768.750 đồng (Hai mươi bốn triệu bảy trăm sáu mươi tám ngàn bảy trăm năm mươi đồng); bị cáo Phan Đức T phải bồi thường 8.256.250 đồng (Tám triệu hai trăm năm mươi sáu ngàn hai trăm năm mươi đồng) nhưng được khấu trừ số tiền đã nộp là 8.256.250 đồng theo Biên lai thu tiền số BB/2021/0000185 ngày 17/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà, bị cáo T đã nộp đủ số tiền bồi thường.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không chịu thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi tương ứng với số tiền chậm thi hành án tại thời điểm thi hành án. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 1.770.000 đồng (Một triệu bảy trăm bảy mươi ngàn đồng) thu lợi bất chính của bị cáo Nguyễn Thị H, theo biên lai thu tiền số BB/2021/0000187 ngày 24 tháng 01 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc cờ lê, loại 24mm, hiệu YELT, màu bạc, dài 28cm; 01 (một) chiếc mỏ lết, hiệu HERO, màu nâu, dài 29,5cm; 01 (một) sợi dây cao su màu xanh, có móc sắt ở hai đầu, dài 150cm; 01 (một) sợi dây cao su màu cam, có móc sắt ở hai đầu, dài 150cm.
(Các vật chứng hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/3/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đông Hà)
2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Buộc bị cáo Trịnh Minh P phải chịu 9.767.000 đồng (Chín triệu bảy trăm sáu mươi bảy ngàn đồng) án phí dân sự.
Buộc bị cáo Phan Đức T phải chịu 2.012.800 đồng (Hai triệu không trăm mười hai ngàn tám trăm đồng) án phí dân sự.
3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bào chữa có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.
Bản án về tội về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 33/2022/HS-ST
Số hiệu: | 33/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về