Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 250/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 250/2023/HS-ST NGÀY 11/12/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 256/2023/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 259/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh ngày 18/5/2000 tại Hưng Yên; nơi cư trú: X, Đ, Y, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị T; chưa có vợ con; tiền án: Bản án số 58/2019/HSST ngày 30/10/2019 Tòa án nhân dân huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội Bắt giữ người trái pháp luật, chấp hành xong án phạt tù ngày 08/5/2022 (chưa được xóa án tích); tiền sự: Không; bị cáo bị bắt giữ từ ngày 16/6/2023 đến ngày 22/6/2023 chuyển tạm giam; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn C1 thuộc Văn phòng L1, Đoàn Luật sư thành phố H; có mặt;

Người chứng kiến: Ông Đinh Văn X và ông Đỗ Văn C2, đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 07 giờ 05 phút ngày 16/6/2023, tại khu vực bến phà G thuộc Tổ dân phố Đ, thị trấn C, H; Phòng phòng chống ma túy và tội phạm Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng thành phố H phối hợp với các lực lượng chức năng bắt quả tang Nguyễn Văn H có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ: trong túi quần phía trước bên phải của H đang mặc 01 túi ni lon màu đen trong có 04 túi ni lon màu trắng kích thước 07x05cm/01 túi, trong các túi có chứa tổng số 407 viên nén màu hồng ký hiệu WY, 04 viên nén màu xanh ký hiệu Y1; 01 điện thoại di động và 01 căn cước công dân tên Nguyễn Văn H.

Tại Kết luận giám định số 528/KL-KTHS(MT) ngày 16/6/2023 của Phòng K- Công an thành phố H kết luận: 407 viên nén màu hồng thu của Nguyễn Văn H là ma túy, có khối lượng 39,11 gam, là loại Methamphetamine; 04 viên nén màu xanh là ma túy, khối lượng 0,39gam, là loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H khai nhận: sáng ngày 14/6/2023 H từ Hưng Yên bắt xe khách xuống H để tìm việc làm. Khi đến bến xe T thì gặp một người bạn xã hội tên T1 (không rõ lai lịch địa chỉ) đang ngồi uống bia ở gần bến xe. Toản mời H ngồi chơi uống bia với T1 cùng bạn của T1 tên là T2. Trong lúc ăn uống, T2 bảo H vận chuyển ma túy ra C cho T2, nếu thành công T2 trả công cho H 1.000.000đồng. H đồng ý. Sau khi uống bia xong thì T2 chở H đi thuê phòng nghỉ cách quán bia khoảng 05-06 km (H không nhớ địa chỉ). T2 thống nhất với H không liên lạc bằng điện thoại, T2 sẽ trực tiếp gặp H khi cần.

Khoảng 06 giờ sáng ngày 16/6/2023 T2 đến phòng nghỉ gặp H. Tại đây, T2 đưa cho H 01 túi nilon màu đen và nói với H bên trong có ma túy. H mở túi ra kiểm tra thì thấy bên trong có 04 túi nilon màu trắng, trong mỗi túi có 01 viên nén màu xanh và các viên nén màu hồng. H nhận biết được các viên nén này là ma túy hồng phiến do cũng đã từng sử dụng ma túy. Hào cất toàn bộ số ma túy này vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi lên xe để T2 chở đến khu vực bến phà G thì dừng lại. T2 bảo H đi bộ lên phà, T2 sẽ liên lạc với người sẽ gặp H để nhận ma túy. H đồng ý và đi bộ đến khu vực nhà chờ bến phà G thì bị lực lượng chức năng kiểm tra bắt quả tang thu giữ vật chứng như nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 255/CT-VKS-P1 ngày 23/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội vận chuyển trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 250 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, việc truy tố, xét xử các bị cáo là không oan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm b khoản 3 và khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt: Nguyễn Văn H từ 16 -17 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Đề nghị phạt tiền đối với bị cáo từ 5.000.000 - 7.000.000 đồng.

Tịch thu tiêu huỷ: Số ma túy còn lại sau giám định.

Trả lại bị cáo: 01 điện thoại Iphone và 1 căn cước công dân, tuy nhiên tạm giữ điện thoại để đảm bảo thi hành án.

Về quyền kháng cáo và án phí đề nghị tuyên theo quy định pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo nêu quan điểm: Đồng ý với tội danh và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ tuy nhiên đề nghị Tòa án xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo về điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bố mẹ bị cáo đã già, bị cáo chưa vợ con; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên toà và tại Cơ quan điều tra phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ xác định: Ngày 16/6/2023 Nguyễn Văn H đã có hành vi vận chuyển trái phép 39,5 gam ma túy Methamphetamine tại khu vực bến P- Tổ dân phố Đ, thị trấn C, H bị lực lượng chức năng phát hiện bắt quả tang. Như vậy có đủ cơ sở kết luận, Nguyễn Văn H đã vận chuyển trái phép chất ma túy với tổng khối lượng 39,5 gam Methamphetamine nên đã phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 250 Bộ luật hình sự.

[3] Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản và khung hình phạt là hoàn toàn đúng với quy định của pháp luật.

[4] Tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự xã hội. Ma túy là tệ nạn xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người và là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác, hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy của bị cáo làm gia tăng tệ nạn ma túy do vậy cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án, chưa được xóa án tích nay lại phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo H có thái độ khai báo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Về hình phạt [7] Căn cứ tính chất vụ án và mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích, lần phạm tội này bị cáo bị coi là tái phạm, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu nên mức hình phạt đối với bị cáo nghiêm khắc như mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo vận chuyển ma túy mục đích để thu lợi, nhưng bị cáo cũng chưa nhận được tiền công, nên chỉ cần áp dụng mức hình phạt bổ sung là phạt tiền 5.000.000 đồng đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định liên quan đến việc phạm tội; trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Iphone màu xám có số Imei: 354376061505323 và 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Văn H không liên quan đến việc phạm tội, nhưng cần tạm giữ chiếc điện thoại để đảm bảo thi hành án.

- Về vấn đề khác [10] Đối với đối tượng tên T2 là người thuê H vận chuyển trái phép chất ma túy, đối tượng tên T1 là bạn xã hội của H, quá trình điều tra H không cung cấp được lai lịch địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[13] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[14] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự, Tuyên bố Nguyễn Văn H phạm tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy".

Xử phạt: Nguyễn Văn H 16 (mười sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giữ 16/6/2023.

Phạt tiền bị cáo Nguyễn Văn H 5.000.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước.

2. Về vật chứng:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định trong 01 phong bì kín có dấu niêm phong số 528MT/PC09 của Phòng K công an thành phố H và chữ ký của Trần Thị Thu H1, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn H;

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H căn cước công dân số 03320000xxxx mang tên Nguyễn Văn H và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám có số Imei: 354376061505323, nhưng cần tạm giữ 01 điện thoại Iphone màu xám của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Tình trạng, đặc điểm các vật chứng thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28 tháng 11 năm 2023 tại Cục thi hành án dân sự thành phố H.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 250/2023/HS-ST

Số hiệu:250/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về