Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 163/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGH AN

BẢN ÁN 163/2023/HS-ST NGÀY 24/11/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 11 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án Hình sự thụ lý số 158/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 230/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:

Lương Anh T, tên gọi khác: không; sinh ngày 17 tháng 07 năm 1995 tại huyện Q, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: xóm T, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 10/12; con ông Lương Văn Q, sinh năm 1962 và bà Hoàng Thị L, sinh năm 1965; anh chị em ruột có 04 người T là con thứ 4 trong gia đình; vợ Trần Thị H; sinh năm 1994 (Đã ly hôn); có 01 con, sinh năm 2013, hiện đang sinh sống tại thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 24/6/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An xử phạt 04 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tại Ban án số 41/2015/HSST. Chấp hành xong án phạt tù ngày 07/10/2015, đã được xóa án tích; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N; có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Lệ T1, Luật sư thuộc Văn phòng L1, Đoàn Luật sư tỉnh N; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Cuối năm 2022, thông qua quan hệ bạn bè, Lương Anh T quen biết Lê Văn Q1 sinh năm 1993, trú tại xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An. T và Q1 có trao đổi số điện thoại và kết bạn Facebook để thỉnh thoảng liên lạc với nhau.

Ngày 08/6/2023, khi Lương Anh T đang ở nhà thì Q1 liên lạc đặt vấn đề với T đi cùng người đàn ông tên H1 ở thành phố V (T không biết lai lịch, địa chỉ cụ thể) lên huyện Q để lấy ma túy và hứa xong việc sẽ được trả tiền công, T đồng ý. Khoảng 08 giờ cùng ngày, người đàn ông tên H1 điều khiển xe ô tô màu đỏ (T không nhớ biển kiểm soát của xe) đi cùng một nam thanh niên (T không biết tên tuổi, địa chỉ) đón T tại trường Trung học phổ thông Q2 (thuộc xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An) rồi đi lên thị trấn K, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Đến đầu giờ chiều cùng ngày, Q1 liên lạc với H1 nói chưa có ma túy nên cả ba quay về. Khoảng 17 giờ ngày 13/6/2023, Lương Anh T đang ở nhà thì Q1 liên lạc đặt vấn đề với T đi cùng người đàn ông tên H1 lên huyện Q đề nhận ma túy nhưng T bận đưa mẹ đi khám bệnh nên từ chối.

Sáng ngày 14/6/2023, Q1 và H1 tiếp tục liên lạc đặt vấn đề với T đi lên huyện Q lấy ma túy, T đồng ý. Khoảng 11 giờ cùng ngày, H1 điều khiển ô tô màu đỏ (không rõ biển kiểm soát), chở một nam thanh niên mà hôm trước đã đi cùng đến đón T tại Trường Trung học phổ thông Q2 (thuộc xã T) rồi cả ba người đi lên huyện Q. Khoảng 12 giờ cùng ngày, khi cả ba người đi đến ngã ba xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An thì có người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) liên lạc vào điện thoại của H1. Lúc này, H1 đưa điện thoại cho T nghe. Theo hướng dẫn của người đàn ông, T biết vị trí cất giấu ma túy ở cột mốc H4-277 phía bên trái đường hướng từ xã c đi lên xã T, huyện Q. H1 điều khiển xe ô tô đi qua cột mốc H4-277 khoảng 500m, quay đầu xe đi qua vị trí đối diện cột mốc H4 - 277 rồi dừng lại và nói T xuống xe tìm gói ma túy đưa lên xe cho H1, T đồng ý. T một mình xuống xe đi lại tìm thấy ở mương nước dưới cột mốc H4-277 có một túi ni lông chứa 41 gói ma túy bên ngoài được bọc bằng nilon màu xanh. T cầm gói ma túy đưa đến cho người thanh niên đi cùng H1 đang ngồi phía bên trái đường, cách xe ô tô khoảng 20m thì bị Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh N tiến hành kiểm tra, phát hiện chỗ T đang ngồi có 41 gói (Methamphetamine) có tổng khối lượng 745,79 gam; lợi dụng sơ hở người đàn ông chạy lên xe ô tô và người đàn ông tên H1 đã điều khiển ô tô chạy thoát.

Tại bản Kết luận giám định số 661/KL-KTHS(Đ2-MT) ngày 28/6/2023 của Phòng K Công an tỉnh N kết luận: "41 mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M1 đến M41 ) thu giữ khi bắt quả tang của Lương Anh T gửi giám định đều là ma túy; loại Methamphethamine. số viên nén màu hồng thu giữ khi bắt quả tang Lương Anh T có tổng khối lượng là 745,79 gam (bảy trăm bốn mươi lăm phẩy bảy mươi chín gam)".

Vật chứng vụ án, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N thu giữ của Lương Anh T 745,79 gam ma túy (Methamphetamine) đã lấy 98,24 gam, còn lại 647,55 gam; 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Oppo màu đen. Vật chứng hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An.

Cáo trạng số 173/CT/VKS-P1 ngày 16 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Lương Anh T về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lương Anh T 20 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, về hình phạt bổ sung, miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo. về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại nhăn hiệu Oppo màu đen là công cụ để thực hiện hành vi phạm tội. Về án phí, buộc bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phần tranh luận, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến gì về tội danh và điều luật áp dụng; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; tháng 10 năm 2013 bị cáo đã cứu giúp anh Trương Văn T2 bị tai nạn giao thông; bản thân bị cáo và gia đình có nhiều thành tích đóng góp trong công tác phòng, chống dịch covid 19; bị cáo có ông nội Lương Văn V được Nhà nước tặng thưởng Kỷ niệm chương chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù, đày ở p là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt mức án nhẹ hơn đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát để bị cáo sớm về với gia đình và xã hội.

Bị cáo Lương Anh T đồng ý với các nội dung của luật sư đã bào chữa; không tranh luận gì thêm; bị cáo đã nhận thức được hành vi sai trái của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các quyết định và hành vi tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên đã thực hiện đầy đủ, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hoạt động tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội, tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo: Xét lời khai của bị cáo Lương Anh T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với kết luận giám định của Phòng K, Công an tỉnh N và các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ kết luận: Sáng ngày 14/6/2023, Q1 và H1 liên lạc đặt vấn đề với T đi lên huyện Q để lấy ma tuý, T đồng ý. Khoảng 11 giờ cùng ngày, H1 điều khiển ô tô màu đỏ (không rõ biển kiểm soát), chở một nam thanh niên đi cùng đến đón T tại Trường Trung học phổ thông Q2 (thuộc xã T, huyện Q) rồi cả ba người đi lên huyện Q. Khoảng 12 giờ cùng ngày, khi đi đến ngã ba xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An thì có người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) liên lạc vào điện thoại của H1, H1 đưa điện thoại cho T nghe. Theo hướng dẫn của người đàn ông, T biết vị trí cất giấu ma túy ở cột mốc H4-277 phía bên trái đường hướng từ xã C đi lên xã T, huyện Q. H1 điều khiển xe ô tô đi qua cột mốc H4- 277 khoảng 500m, quay đầu xe đi qua vị trí đối diện cột mốc H4-277 rồi dừng lại và nói T xuống xe tìm gói ma túy đưa lên xe cho H1, T đồng ý. T một mình xuống xe đi lại tìm thấy ở mương nước dưới cột mốc H4-277 có một túi ni lông chứa 41 gói ma túy bên ngoài được bọc bằng nilon màu xanh. T cầm gói ma túy đưa đến cho người thanh niên đi cùng H1 đang ngồi phía bên trái đường, cách xe ô tô khoảng 20m thì bị Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh N tiến hành kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang Lương Anh T, thu giữ toàn bộ số ma tuý bao gồm 41 gói (Methamphetamine) có tổng khối lượng 745,79 gam; lợi dụng sơ hở người đàn ông chạy lên xe ô tô và người đàn ông tên H1 đã điều khiển ô tô chạy thoát. Hành vi của bị cáo Lương Anh T đã phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” quy định điểm b khoản 4 Điều 250 của Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo Lương Anh T: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rồ hành vi vận chuyển chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì hám lợi mà vẫn thực hiện, phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo Lương Anh T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự an ninh, an toàn xã hội là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác nên cần xét xử nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân và hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng. Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tháng 10 năm 2013 bị cáo đã cứu giúp anh Trương Văn T2 bị tai nạn giao thông; bản thân bị cáo và gia đình có nhiều đóng góp trong công tác phòng, chống dịch covid 19 tại địa phương, được địa phương, các cơ quan liên quan xác nhận; bị cáo có ông nội Lương Văn V được Nhà nước tặng thưởng Kỷ niệm chương chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù, đày tại trại giam P là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hơn nữa, mặc dù bị cáo phạm tội vận chuyển khối lượng ma túy rất lớn, tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo là do bị người khác rủ rê và bị cáo cũng chưa được hưởng lợi gì. Do đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tại phiên toà là phù hợp, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản gì lớn, nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo Lương Anh T vận chuyển, khối lượng còn lại sau khi giám định là chất Nhà nước độc quyền quản lý, cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy; đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Oppo màu đen thu giữ của bị cáo là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng liên lạc, di chuyển khi vận chuyển trái phép chất ma túy nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[7] Đối với Lê Văn Q1 (sinh năm 1993; trú tại: Xóm T, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An) theo T khai là người đặt vấn đề với T đi cùng người đàn ông tên H1 lên huyện Q vận chuyển ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành xác minh nhưng Lê Văn Q1 hiện không có mặt tại địa phương. Với tài liệu chứng cứ thu thập được không đủ căn cứ để xử lý Lê Văn Q1 trong vụ án này.

[8] Đối với người đàn ông tên H1 thuê T vận chuyển ma túy và người thanh niên đi cùng người đàn ông tên H1 và người đàn ông dân tộc Mông hướng dẫn cho T lấy số ma túy trên, do Lương Anh T không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của những người này nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ và xử lý trong vụ án này.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Lương Anh T phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 250, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lương Anh T 20 (hai mươi) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 14 tháng 6 năm 2023).

Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo Lương Anh T.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy: 41 gói (Methamphetamine) có tổng khối lượng 745,79 gam đã lấy 98,24 gam giám định, còn lại 647,55 gam.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đen, đã qua sử dụng, số Imei1: 864036043483816; số imei2: 864036043483808; số sim: 096117141.

Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Phiếu nhập kho vật chứng số 89/PNK ngày 09/10/2023, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N và Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An.

3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Lương A phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo Lương Anh T có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 163/2023/HS-ST

Số hiệu:163/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về