Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 49/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 49/2022/HSST NGÀY 02/06/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 02/6/2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 43/2022/TLST-HS, ngày 28 tháng 4 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2022/QĐXXST-HS ngày 20/5/2022 đối với bị cáo:

Lê Mạnh T, sinh năm 1996 tại Y, Yên Bái; nơi cư trú: Thôn L, xã V, huyện Y, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H và bà Lê Thị B; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/01/2022, đến ngày 20/01/2022 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo T: Bà Ngô Thị Xuân T - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp nhà nước tỉnh Hải Dương; có mặt.

* Người làm chứng: Anh Vũ Văn T1; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 17/01/2022, Lê Mạnh T cùng một người thanh niên T khai tên là A, sinh năm 1995 (T không rõ nhân thân, lý lịch, có số điện thoại là 0898.761.232 và Tài khoản zalo “Anh Vũ”) ăn cơm tại quán cơm gần Quốc lộ 5, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Trong lúc ăn cơm, A bảo T giúp A đem một ít pháo đi giao cho khách và hứa trả T 2.000.000đ. T đồng ý và bảo chỉ lấy tiền công 500.000đ thôi. Sau đó, T điều khiển xe mô tô Honda Wave, màu trắng, đen, bạc, biển số 21B2- 214.85 của T đi theo xe ô tô của A (T khai xe ô tô màu trắng, không gắn biển số, không rõ loại xe). Khi đi qua cầu B, đến khu vực một bãi đất trống thuộc địa bàn thành phố C (T không biết địa điểm cụ thể) thì A xuống xe và lên xe mô tô của T, chỉ đường cho T chở A đến khu vực bụi tre cách chỗ A đỗ ô tô khoảng 500 mét để lấy pháo. Sau đó, A bê từ trong bụi tre ra 01 thùng cát tông đưa cho T và bảo với T bên trong đựng pháo và lấy 01 tờ tiền mệnh giá 500.000đ đút vào túi quần của T và nói là trả công giao pháo. A bảo T đi thẳng đường Quốc lộ, đến khu vực đèn xanh đèn đỏ thì liên hệ với người mua pháo qua số điện thoai 0567.237044 để giao pháo và nhận hộ A số tiền 5.000.000đ. Đến 22 giờ 25 phút cùng ngày, khi T đi đến khu vực đèn xanh đèn đỏ ở khu dân cư N, phường T, thành phố C, tỉnh Hải Dương và đang chờ để giao pháo thì bị lực lượng Công an thành phố Chí Linh phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ 01 thùng cát tông, bên trong đựng 04 khối hình hộp có kích thước (15,3 x 15,3 x 15)cm, vỏ ngoài được dán giấy màu vàng đỏ, bên trong có 36 khối hình trụ, bên ngoài có gắn dây dẫn; 25 vật một đầu hình trụ, một đầu hình tròn có gắn dây dẫn được đựng trong túi nilon màu trắng, có chữ Lovely màu đỏ, đã qua sử dụng, T khai nhận là pháo được người tên là A thuê vận chuyển đi bán và thu giữ 01 xe mô tô Honda Wave, biển số: 21B2-214.85; 01 tờ tiền Polyme mệnh giá 500.000đ, seri TA 17600725. Lê Mạnh T tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S, màu trắng, số IMEI: 358684059371681 lắp sim số: 0385.776.689 là điện thoại T sử dụng để liên hệ với A và người mua pháo để vận chuyển pháo đi giao.

Tại bản kết luận giám định số 458/C09-P2 ngày 19/01/2022 của Viện khoa hoạc hình sự - Bộ Công an kết luận:

- Trong 04 khối hộp, vỏ bọc giấy màu, bên trong mỗi khối gồm 36 vật hình trụ vỏ giấy được liên kết với nhau gửi đến giám định gồm:

+ 03 khối hộp đều là pháo nổ, khối lượng 5,2 kg.

+ 01 khối hộp không phải là pháo nổ (vỏ hộp pháo nổ đã qua sử dụng), khối lượng 0,8kg.

- 25 vật hình bóng đèn điện tròn, vỏ ngoài bọc giấy, một đầu mỗi vật có gắn dây ngòi đều là pháo nổ, khối lượng 1,1kg.

Tổng khối lượng pháo nổ là 6,3kg. Toàn bộ số pháo gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Tại bản kết luận giám định số 22/KL-PC09 ngày 22/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận 01 tờ tiền Polyme Việt Nam đồng mệnh giá 500.000đ, có mã số hiệu (seri) TA 17600725 là tiền thật.

Bản Cáo trạng số 46/CT-VKS-CL ngày 25/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương truy tố Lê Mạnh T về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Lê Mạnh T thành khẩn khai nhận như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, h, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 05 - 06 tháng tù, cho hưởng án treo và đề nghị xem xét miễn án phí hình sự cho bị cáo vì bị cáo thuộc gia đình hộ nghèo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh thực hành quyền công tố, trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Tuyên bố: Bị cáo Lê Mạnh T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”. Xử phạt bị cáo Lê Mạnh T từ 07 đến 09 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 17/01/2022. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng. Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy: 01 thùng cát tông có kích thước (36 x 33 x 28)cm đã qua sử dụng, 01 túi nilon màu trắng, có chữ Lovely màu đỏ, đã qua sử dụng; Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S, màu trắng, số IMEI: 358684059371681 lắp sim số: 0385.776.689; 01 xe môt tô Honda Wave, biển số: 21B2-214.85; số máy JA39E2275237, số khung: RLHJA3923MY157083; Số tiền 500.000đ đựng trong phong bì niêm phong, mặt sau có 04 dấu đỏ giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương và hai chữ ký họ tên Nguyễn Thu H. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lê Mạnh T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Chí Linh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo phù hợp nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Hồi 22 giờ 25 phút, ngày 17/01/2022, tại khu dân cư N, phường T, thành phố C, tỉnh Hải Dương, Lê Mạnh T có hành vi vận chuyển 6,3kg pháo nổ cho một người thanh niên tên A (chưa xác định được nhân thân, lý lịch) để lấy số tiền công là 500.000đ thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương phát hiện bắt quả tang.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý Nhà nước về pháo nổ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ pháo nổ là loại hàng hóa bị Nhà nước cấm sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển nhằm ngăn ngừa hậu quả xấu cho xã hội, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện việc vận chuyển pháo nổ nhằm mục đích tư lợi. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải có hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật hình sự bị cáo có thể chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp, gia đình thuộc hộ nghèo, do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp:

- 01 thùng cát tông có kích thước (36 x 33 x 28)cm; 01 túi nilon màu trắng, có chữ Lovely màu đỏ, đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S, màu trắng, số IMEI: 358684059371681 lắp sim số: 0385.776.689; 01 xe môt tô Honda Wave, biển số: 21B2-214.85 là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội. Do vậy, cần tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 tờ tiền Polyme mệnh giá 500.000đ, seri TA 17600725 là tiền do bị cáo thu lợi bất chính từ việc phạm tội, do vậy, cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với 04 khối hình hộp có kích thước (15,3 x 15,3 x 15)cm, vỏ ngoài được dán dấy màu vàng đỏ, bên trong có 36 khối hình trụ, bên ngoài có gắn dây dẫn; 25 vật một đầu hình trụ, một đầu hình tròn có gắn dây dẫn quá trình giám định cơ quan giám định đã sử dụng hết mẫu vật, do vậy, không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Đối với người thanh niên tên A thuê T vận chuyển pháo và người mua pháo. Quá trình điều tra không xác định được cụ thể họ tên, địa chỉ của những người này. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[9] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Mạnh T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Lê Mạnh T 07 (Bảy) tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 17/01/2022.

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

3. Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 thùng cát tông có kích thước (36 x 33 x 28)cm đã qua sử dụng;

+ 01 túi nilon màu trắng, có chữ Lovely màu đỏ, đã qua sử dụng;

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S, màu trắng, số IMEI: 358684059371681 lắp sim số: 0385.776.689;

+ 01 xe môt tô Honda Wave, biển số: 21B2-214.85; số máy JA39E2275237, số khung: RLHJA3923MY157083;

+ Số tiền 500.000đ đựng trong phong bì niêm phong, mặt sau có 04 dấu đỏ giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương và hai chữ ký họ tên Nguyễn Thu H.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 28/4/2022 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Chí Linh và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Chí Linh)

4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lê Mạnh T.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Mạnh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 49/2022/HSST

Số hiệu:49/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về