Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 37/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 37/2020/HS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2020/TLST-HS, ngày 10 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L, sinh ngày 21/01/1987 tại huyện Y, tỉnh Nam Định. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Q, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M và bà Đỗ Thị M1; có vợ Nguyễn Thị T và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa bị xử lý kỷ luật; bị bắt, tạm giữ từ ngày 30/12/2019 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đến nay; có mặt.

- Những người tham gia tố tụng khác:

Người chứng kiến: Anh Nông Văn N, sinh năm 1990. Nơi cư trú: Khu N, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn L là lái xe ô tô cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại và dịch vụ A, có trụ sở tại thôn 19, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang từ tháng 7 năm 2018. Ngày 28/12/2019 theo điều động của Công ty, L chở hàng nhãn tươi từ Lào về Việt Nam rồi xuất khẩu sang Trung Quốc. Khoảng 14 giờ cùng ngày L điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 98C-X kéo theo rơ mooc biển kiểm soát 98R-X làm thủ tục xuất cảnh qua Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị sang Trung Quốc vào bãi số 01 cách biên giới Việt Nam khoảng 500m để kiểm tra hàng. Sau khi kiểm tra xong L tiếp tục điều khiển xe ô tô chở nhãn đến bãi hoa quả cách bãi số 01 khoảng 4-5 km đi sâu vào nội địa Trung Quốc để giao hàng, trong lúc chờ sang tải hàng hóa L quay về Việt Nam nghỉ tại thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Đến khoảng 11 giờ ngày 29/12/2019 L nhận được thông tin từ Công ty xe đã trả hàng xong, L làm thủ tục xuất cảnh sang Trung Quốc để lấy xe ô tô, nhưng khi lấy được xe ô tô do đã quá muộn, các cơ quan chức năng Trung Quốc đã nghỉ không làm thủ tục nhập cảnh vào Việt Nam được. L thuê một người đàn ông Trung Quốc chở ra Cửa khẩu Hữu Nghị để về Việt Nam nghỉ, trên đường đi người này đặt vấn đề thuê L chở pháo từ Trung Quốc về Việt Nam. Sau khi suy nghĩ L đã đồng ý và cho người đàn ông Trung Quốc số điện thoại của L để liên lạc, đồng thời lấy chìa khóa xe ô tô cho người đàn ông Trung Quốc để mở cất giấu pháo lên ô tô. Sau đó L đưa cho người đàn ông này 400.000 đồng để nhờ mua hộ 01 giàn pháo loại 36 lỗ/giàn về để đốt trong dịp Tết Nguyên đán. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày khi L đang ở nhà nghỉ thì nhận được điện thoại của người này nói đã cất giấu pháo vào gầm cốp và cabin buồng lái xe ô tô, người này nói với L khi vận chuyển số pháo trên về đến Hà Tĩnh sẽ có người gọi điện thoại cho L để đến nhận pháo và trả tiền công 15.000.000 đồng. L đồng ý và hỏi chỗ cất giấu chìa khóa xe ô tô, sau đó L xóa hết số điện thoại của người đàn ông Trung Quốc trong nhật ký. Ngày 30/12/2019 L sang Trung Quốc điều khiển xe ô tô về Việt Nam, khi đi qua Trạm Kiểm soát Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị thì bị tổ công tác phát hiện bắt giữ cùng tang vật như đã nêu trên.

Tại biên bản xác định trọng lượng pháo ngày 30/12/2019 thu giữ của Nguyễn Văn L gồm: 91 giàn pháo loại 36 lỗ/1 giàn và 90 quả pháo hình lựu đạn có tổng trọng lượng là 125 kg.

Tại Bản kết luận giám định số 46/KL- PC09 ngày 02/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Tất cả mẫu giám định trên đều có chứa thuốc pháo, khi đốt đều gây ra tiếng nổ.

Tại bản cáo trạng số 43/CT-VKS ngày 08/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội Vận chuyển hàng cấm theo Điểm c Khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm c Khoản 3 Điều 191; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội Vận chuyển hàng cấm và đề nghị xử phạt bị cáo từ 05 đến 06 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử:

- Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã sử dụng để giám định và tiêu hủy hết 91 giàn pháo loại 36 lỗ/giàn, 90 quả pháo hình lựu đạn và 16 túi nilon màu đen dùng để đựng pháo, trong đó 15 túi nilon bên ngoài được quấn dán bằng băng dính màu vàng.

- Đối với 01 chiếc xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 98C-X; 01 sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 98R-X; 01 giấy chứng nhận kiểm định đối với sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 98R-X; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 98C-X (đã bị rách dời); 01 giấy biên nhận thế chấp số 589167612163511 BD.06-01/GBNTC/MB-BGI do Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Bắc Giang cấp ngày 16/12/2019 có hiệu lực đến ngày 18/01/2020; 01 giấy biên nhận giữ bản chính giấy chứng nhận đăng ký phương tiện giao thông đang thế chấp số 01-VCB ngày 16/12/2019. Do các vật chứng trên không liên quan đến vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã trả lại cho chủ sở hữu là Công ty TNHH thương mại và dịch vụ A.

- Tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động màu xanh trên vỏ có ghi chữ SAMSUNG đã qua sử dụng do bị cáo dùng để liên lạc mua pháo;

- Tịch thu tiêu hủy 02 sim điện thoại viettel đã qua sử dụng do không còn giá trị sử dụng.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Văn L 01 quyển hộ chiếu phổ thông; 01 giấy thông hành xuất nhập cảnh; 01 căn cước công dân; 01 giấy phép lái xe do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng bị cáo hối hận về hành vi của bản thân và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo phù hợp với các chứng cứ khác và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là hợp pháp.

[2] Hồi 08 giờ 20 phút ngày 30/12/2019, Phòng phòng chống tội phạm ma túy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn, Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị và Chi cục Hải quan Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị đang làm nhiệm vụ tại Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn L đang có hành vi vận chuyển 91 giàn pháo loại 36 lỗ/giàn; 90 quả pháo hình lựu đạn, có tổng trọng lượng là 125 kg pháo thành phẩm bằng xe ô tô có đầu kéo biển kiểm soát 98C-X, kéo theo rơ mooc tải biển kiểm soát 98R-X từ Trung Quốc vào Việt Nam.

[3] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt quả tang, biên bản xác định trọng lượng và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo Nguyễn Văn L đã có hành vi vận chuyển 125 kg pháo nổ là vi phạm pháp luật. Hành vi này của bị cáo Nguyễn Văn L đã phạm vào tội Vận chuyển hàng cấm, quy định tại Điểm c Khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn L thuộc trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng. Khi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, có đủ khả năng để nhận thức việc vận chuyển hàng cấm là trái với quy định của pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý một số hàng hóa của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội Vận chuyển hàng cấm theo quy định tại Điểm c Khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa bị xử lý kỷ luật nên là người có nhân thân tốt.

[8] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và đủ để bị cáo có thời gian tập trung cải tạo để về đoàn tụ chăm sóc gia đình, trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời cũng đảm bảo tính chất răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[9] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có khả năng thi hành hình phạt tiền nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Đối với người đàn ông Trung Quốc thuê bị cáo vận chuyển pháo, do bị cáo không biết họ và tên địa chỉ của người này và vấn đề lãnh thổ quốc gia nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không đủ cơ sở để điều tra làm rõ.

[11] Về xử lý vật chứng: Đối với 03 (ba) giàn pháo loại 36 lỗ/giàn; 05 (năm) quả pháo hình lựu đạn đã được sử dụng để phục vụ công tác trưng cầu giám định. Số còn lại gồm 88 (tám mươi tám) giàn pháo loại 36 lỗ/giàn; 85 (tám mươi lăm) quả pháo hình lựu đạn và 16 (mười sáu) túi nilon màu đen dùng để đựng pháo, trong đó 15 (mười lăm) túi nilon bên ngoài được quấn dán bằng băng dính màu vàng đã tiêu hủy theo Quyết định xử lý vật chứng số 16 ngày 16/01/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Hội đồng xét xử chỉ cần xác nhận.

[12] Đối với 01 chiếc xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 98C-X, số máy D12.42*150417010697*, số khung: LZZ5CLVB3FA093107; 01 sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 98R-X, số khung LJRH13380E1015188; 01 giấy chứng nhận kiểm định số KC6924893 do CTCP đăng kiểm Thành Công - Bắc Giang cấp ngày 04/01/2019 có hiệu lực đến ngày 03/01/2020 đối với xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 98C-X; 01 giấy chứng nhận kiểm định số KC8611529 do CTCP đăng kiểm Thành Công - Bắc Giang cấp ngày 12/02/2019 có hiệu lực đến ngày 11/02/2020 đối với sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 98R-X; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện xe ô tô do Công ty bảo hiểm bưu điện Bắc Ninh cấp ngày 30/3/2019 có thời hạn đến ngày 30/3/2020 cho xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 98C- X (đã bị rách dời); 01 giấy biên nhận thế chấp số 589167612163511 BD.06- 01/GBNTC/MB-BGI do Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Bắc Giang cấp ngày 16/12/2019 có hiệu lực đến ngày 18/01/2020; 01 giấy biên nhận giữ bản chính giấy chứng nhận đăng ký phương tiện giao thông đang thế chấp số 01-VCB ngày 16/12/2019; bên nhận thế chấp: Ngân hàng TMCP Việt Nam chi nhánh Bắc Giang, bên thế chấp là Công ty TNHH thương mại và dịch vụ A. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã trả lại các vật chứng trên cho chủ sở hữu là Công ty TNHH thương mại và dịch vụ A theo quy định của pháp luật, do đó Hội đồng xét xử chỉ cần xác nhận.

[13] Tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động màu xanh trên vỏ có ghi chữ SAMSUNG đã qua sử dụng do bị cáo dùng vào việc phạm tội.

[14] Tịch thu tiêu hủy 02 sim điện thoại viettel đã qua sử dụng do không còn giá trị sử dụng.

[15] Trả lại bị cáo Nguyễn Văn L 01 quyển hộ chiếu phổ thông số C6865434 do Cục quản lý xuất nhập cảnh, Bộ Công an cấp ngày 06/3/2019 có giá trị đến ngày 06/3/2029; 01 giấy thông hành xuất nhập cảnh số H1310587 do Công an tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 07/8/2019 có giá trị đến ngày 07/02/2020; 01 căn cước công dân số 036087002497 do Cục Cảnh sát đăng lý quản lý cư trú và dữ liệu Quốc gia về dân cư cấp ngày 30/6/2016; 01 giấy phép lái xe số 370157004331 do Sở Giao thông vận tải thành phố Hải Phòng cấp ngày 22/6/2016 đều mang tên Nguyễn Văn L do không liên quan đến hành vi phạm tội.

[16] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn L bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[14] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[15] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c Khoản 3 Điều 191; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ Điểm a, c Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điểm a, c khoản 2; Điểm a, b Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

2. Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/12/2019.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã tiêu hủy 88 (tám mươi tám) giàn pháo loại 36 lỗ/giàn; 85 (tám mươi lăm) quả pháo hình lựu đạn là số pháo nhận lại sau khi giám định và 16 (mười sáu) túi nilon màu đen dùng để đựng pháo, trong đó 15 (mười lăm) túi nilon bên ngoài được quấn dán bằng băng dính màu vàng theo Quyết định xử lý vật chứng số 16 ngày 16/01/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.

- Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã trả lại 01 chiếc xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 98C-X, số máy D12.42*150417010697*, số khung: LZZ5CLVB3FA093107; 01 sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 98R-X, số khung LJRH13380E1015188; 01 giấy chứng nhận kiểm định số KC6924893 do CTCP đăng kiểm Thành Công - Bắc Giang cấp ngày 04/01/2019 có hiệu lực đến ngày 03/01/2020 đối với xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 98C-X; 01 giấy chứng nhận kiểm định số KC8611529 do CTCP đăng kiểm Thành Công - Bắc Giang cấp ngày 12/02/2019 có hiệu lực đến ngày 11/02/2020 đối với sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 98R-X; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện xe ô tô do Công ty bảo hiểm bưu điện Bắc Ninh cấp ngày 30/3/2019 có thời hạn đến ngày 30/3/2020 cho xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 98C- X (đã bị rách dời); 01 giấy biên nhận thế chấp số 589167612163511 BD.06- 01/GBNTC/MB-BGI do Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Bắc Giang cấp ngày 16/12/2019 có hiệu lực đến ngày 18/01/2020; 01 giấy biên nhận giữ bản chính giấy chứng nhận đăng ký phương tiện giao thông đang thế chấp số 01-VCB ngày 16/12/2019; bên nhận thế chấp: Ngân hàng TMCP Việt Nam chi nhánh Bắc Giang, bên thế chấp là Công ty TNHH thương mại và dịch vụ A cho chủ sở hữu là Công ty TNHH thương mại và dịch vụ A.

- Tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động màu xanh trên vỏ có ghi chữ SAMSUNG đã qua sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy 02 sim điện thoại Viettel đã qua sử dụng.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Văn L 01 quyển hộ chiếu phổ thông số C6865434 do Cục quản lý xuất nhập cảnh, Bộ Công an cấp ngày 06/3/2019 có giá trị đến ngày 06/3/2029; 01 giấy thông hành xuất nhập cảnh số H1310587 do Công an tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 07/8/2019 có giá trị đến ngày 07/02/2020; 01 căn cước công dân số 036087002497 do Cục Cảnh sát đăng lý quản lý cư trú và dữ liệu Quốc gia về dân cư cấp ngày 30/6/2016; 01 giấy phép lái xe số 370157004331 do Sở Giao thông vận tải thành phố Hải Phòng cấp ngày 22/6/2016 đều mang tên Nguyễn Văn L.

(Hiện vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/4/2020).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 37/2020/HS-ST

Số hiệu:37/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về