Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 291/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 291/2021/HS-PT NGÀY 22/10/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Trong ngày 22 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 254/2021/TLPT- HS, ngày 22/6/2021 đối với bị cáo Phạm Văn H do có kháng cáo của bị cáo Phạm Văn H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2021/HS-ST ngày 11/5/2021 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Phạm Văn H; giới tính: Nam; sinh năm: 1978, tại Hải Phòng; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Xã CT, huyện AL, thành phố Hải Phòng; chỗ ở trước khi bị bắt: T12-03A chung cư RP, Số 116 BS, Phường Q, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Kinh doanh; con ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị S; bị cáo có vợ Nguyễn Thị Th và có 02 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 22/5/2020 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Trong vụ án còn có người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Trần Văn T, Nguyễn Hồng N, Vũ Thanh T2, Lương Hoàng Th, Nguyễn Thị Th2, Trần Minh Q, Ngân hàng Thương mại Cổ phần QTVN không có kháng cáo, không bị kháng nghị và không có liên quan đến kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Văn H, nên Hội đồng xét xử không triệu tập đến phiên tòa phúc thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn H quen biết với người tên “Yu” (không rõ lai lịch) khi đi bán phế liệu tại Campuchia từ năm 2017. Khi quen biết nhau “Yu” có nói cho H biết về việc “Yu” đang bán thuốc lá điếu nhập lậu. Ngày 15/5/2020, “Yu” điện thoại cho H nói có một số lượng lớn thuốc lá hiệu Blnd.555 đã bán cho người tên Đ (không rõ lai lịch) nhưng bị mốc nên Đ trả lại và nhờ H bán giúp cho “Yu”. H yêu cầu “Yu” chụp ảnh và gửi mẫu số thuốc này cho H xem. “Yu” đã gửi ảnh thuốc qua ứng dụng WhatsApp cho H, đồng thời gửi đến Bến xe 24/24, Quận V cho H 08 gói thuốc hiệu Blnd.555 nêu trên. Thấy thuốc mốc nhiều, khó bán ở Việt Nam, H không có khách mua nên từ chối bán giúp cho “Yu”.

Ngày 21/5/2020, “Yu” tiếp tục điện thoại cho H nhờ H tìm xe tải 2,5 tấn và người bốc xếp đến Quận B vận chuyển 77 thùng thuốc lá hiệu Blnd.555 (mỗi thùng 500 bao, tổng cộng là 38.480 bao) mà Đ trả lại cho “Yu” nêu trên cất giữ giúp vài hôm. H đồng ý và dự định mang về bãi xe 24/24 của H dưới chân cầu HimLam, phường E, Quận V để cất giữ. “Yu” kêu H đến chợ An Sương điện thoại cho Đ qua số điện thoại: 0765322678 và 0763858805, Đ sẽ dẫn H đến điểm lấy hàng. H điện thoại cho người tên Hùng để thuê xe vận chuyển hàng giúp nhưng Hùng bận việc nên đã giới thiệu Trần Văn T vận chuyển hàng thuê cho H. T điều khiển xe tải biển số: 83C-05504 đến Bến xe An Sương gặp H. H còn nhờ thêm người quen gồm: Nguyễn Hồng N, Nguyễn Thanh T2, Lương Hoàng Th đi cùng để giúp H bốc xếp phụ hàng hóa lên xe. H không nói với T , N, T2 và Th hàng hóa là thuốc lá điếu nhập lậu rồi H điều khiển xe ô tô biển số 51H-150.80 chở T2 và Th, còn N thì đi xe riêng.

Khi đến Bến xe An Sương, H điện thoại cho Đ theo số điện thoại “Yu” đã cung cấp nêu trên. Đ kêu một người đàn ông (không rõ lai lịch) ra dẫn H và những người đi cùng đến nhà số 44 DN9, Khu phố 4, phường E Thuận, Quận B để lấy hàng. Khi đến nơi, T và N ở trên thùng xe của T để sắp xếp hàng còn H, T2 và Th vào trong nhà bốc hàng đưa ra xe. Khi nhóm người của H bốc được 37 thùng thuốc lá hiệu Blnd.555 (18.480 bao) lên xe tải biển số: 83C-05504 thì bị tổ công tác Công an Quận B kiểm tra, phát hiện.

Tại Cơ quan điều tra Công an Quận B, Phạm Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Ngoài ra H còn khai nhận thêm H đã mua thuốc lá hiệu Blnd.555 của “Yu” được khoảng 03 lần, mỗi lần khoảng 1480 bao – 1490 bao, tiền hàng H thanh toán bằng hình thức chuyển khoản từ tài khoản ngân hàng Sacombank của H số 060083786658 vào tài khoản ngân hàng Vietcombank số 007100169118 tên Nguyen Thanh Vu. Số thuốc lá này H đều đã bán hết cho khách hàng.

Công văn trả lời của Hiệp hội thuốc lá Vit Nam số 52/CV-2020 HHTLVN ngày 22/7/2020 xác định: 38.480 bao thuốc lá điếu có nhãn hiệu Blnd.555 là thuốc lá điếu nhập lậu.

Vật chứng thu giữ và xử lý vật chứng:

- 38.480 bao thuốc lá điếu hiệu Blnd.555 chứa trong 77 thùng carton không nhãn hiệu (trong đó, có 18.480 bao trong 37 thùng carton trên xe ô tô tải biển số:

83C-05504 của T và 20.000 bao trong 40 thùng carton thu giữ trong nhà số 44 DN9, Khu phố 4, phường E Thuận).

- 01 gậy bóng chày hiệu BAT hình trụ dài 70 cm; 01 con dao bằng kim loại không nhãn hiệu dài 58 cm (thu giữ trên xe ô tô biển số 51H-150.80 của H).

- 01 khẩu súng bắn đạn cao su, màu đen; 02 băng đạn (01 băng ngắn có 10 viên đạn cao su, 01 băng dài có 14 viên đạn cao su); 01 hộp đựng 28 viên đạn cao su; 01 hộ cH tên Vũ Văn Bản; 01 hợp đồng thuê xe giữa công ty TNHH TMDV – VT SG CAR và Vũ Văn Bản; 01 giấy vay tiền viết tay giữa Đặng Thị Huỳnh M và Vũ Thế B; 04 tờ giấy A4 có chữ viết mực xanh, nội dung thống kê về chi phí và giá thuốc (thu giữ trong nhà số 44 DN9, Khu phố 4, phường E Thuận).

- 01 điện thoại iphone X của Phạm Văn H (đã qua sử dụng) số máy: MQA82LL/A, số sê-ri: FK1VQXT6JCL6, IMEI: 35672208667925.

- 01 xe ô tô tải biển số 83C-05504. Qua xác minh do Trần Văn T đứng tên sở hữu.

- 01 xe ô tô biển số 51H-150.80. Qua xác minh do bà Nguyễn Thị Thu, vợ của Phạm Văn H đứng tên sở hữu. Chiếc xe đang thế chấp cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần QTVN.

Trong quá trình điều tra, xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án, Cơ quan điều tra Công an Quận B đã trả lại cho ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị Thu 02 xe ô tô nêu trên. Ngân hàng Thương mại Cổ phần QTVN đồng ý việc Cơ quan điều tra Công an Quận B trả xe ôtô biển số 51H-150.80 cho bà Thu.

Đối với hành vi buôn bán thuốc lá mà H khai nhận, Cơ quan điều tra Công an Quận B không thu giữ được vật chứng, ngoài lời khai của H không có chứng cứ hỗ trợ nào khác nên chưa đủ căn cứ để xử lý đối với H về hành vi này.

Đối với Trần Văn T, Nguyễn Hồng N, Nguyễn Thanh T2, Lương Hoàn Th đã giúp H bốc xếp, vận chuyển số thuốc lá điếu nhập lậu trên. Khi nhờ bốc xếp, vận chuyển, H không nói với các đương sự số hàng này là thuốc lá lậu và T , N, T2 và Th không biết hàng hóa chứa trong các thùng giấy, dán kín là thuốc lá lậu. Do đó, Cơ quan điều tra Công an Quận B không có cơ sở để xử lý đối với các đương sự này.

Đối với hành vi “Tàng trữ hàng cấm” trong vụ án tại căn nhà 44, đường DN9, Khu phố 4, phường E Thuận, Quận B. Qua xác minh căn nhà trên là của ông Trần Minh Q, đã cho người tên Vũ Văn Bản ngụ phường Tân Hòa, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thuê từ ngày 09/4/2020, mục đích thuê để ở. Số thuốc lá lậu và các đồ vật, tài liệu mà Cơ quan điều tra Công an Quận B thu giữ được trong căn nhà này không phải của ông Q và ông Q không biết là của ai. Do đó không có căn cứ để xử lý đối với ông Trần Minh Q. Cơ quan điều tra Công an Quận B chưa xác định được đối tượng thực hiện hành vi phạm tội vì vậy, đã ra quyết định tách vụ án “Tàng trữ hàng cấm” để tiếp tục tiến hành điều tra, làm rõ.

Cơ quan điều tra Công an Quận B đã xác minh tại địa chỉ thường trú đối với Vũ Văn Bản nhưng hiện tại Bản không có ở địa phương. Ngoài ra, Cơ quan điều tra Công an Quận B cũng đã xác minh và ra thông báo truy tìm đối với những đối tượng có liên quan trong vụ án gồm: Vũ Thế B, Vũ Văn Đ, Nguyễn Thanh Vũ và Vũ Văn Bản, khi nào xác định và làm việc được, có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với 01 khẩu súng bắn đạn cao su, màu đen; 02 băng đạn (01 băng ngắn có 10 viên đạn cao su, 01 băng dài có 14 viên đạn cao su); 01 hộp đựng 28 viên đạn cao su, Cơ quan điều tra Công an đã trưng cầu giám định Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, xác định đây là công cụ hỗ trợ, nhưng chưa xác định được chủ sỡ hữu số công cụ này. Cơ quan điều tra Công an Quận B tách xử lý riêng.

Tại Cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 18/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố Phạm Văn H về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Phạm Văn H thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, bị cáo đồng ý với các kết luận giám định và không có ý kiến gì khác.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2021/HS-ST ngày 11/5/2021 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

- Căn cứ vào điểm b khoản 3, khoản 4 Điều 191, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/5/2020.

Phạt bổ sung bị cáo Phạm Văn H số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng để tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, Bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 11/5/2021, bị cáo Phạm Văn H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Phạm Văn H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã xác định và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin được xem xét, xét xử lại để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với lý do bi cáo là lao động chính trong gia đình và đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đưa ra ý kiến phát biểu:

Sau khi xem xét tất cả lời khai, tình tiết trong hồ sơ vụ án, tại phiên tòa bị cáo khai tình tiết giảm nhẹ là lao động chính trong gia đình và đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nhưng không cung cấp được tại liệu chứng minh, nên bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội, phù hợp với tính chất, mức độ của hậu quả đã xảy ra, không oan sai. Từ đó, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Phạm Văn H không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 11/5/2021, Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm, cùng ngày 11/5/2021, bị cáo có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Văn H được lập trong trong thời hạn luật định nên hợp lệ.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, từ đó có đủ cơ sở để kết luận:

Vào ngày 21/5/2020, Phạm Văn H đồng ý vận chuyển giúp “Yu” (không rõ lai lịch) 77 thùng thuốc lá điếu hiệu Blnd.555 nhập lậu đem đi cất giữ. Vào lúc 22 giờ 30 ngày 21/5/2020, tại nhà số 44 DN9, Khu phố 4, phường E Thuận, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, Công an bắt quả tang Phạm Văn H cùng với 04 người khác gồm: Nguyễn Văn N, Vũ Thanh T2, Trần Văn T và Lương Hoàng Th đang vận chuyển các thùng carton bên trong chứa thuốc lá điếu hiệu Blnd.555 nhập lậu lên xe tải biển số 83C-05504. Công an thu giữ trên xe tải 37 thùng carton bên trong có 18.480 bao thuốc lá điếu hiệu Blnd.555 nhập lậu và trong nhà 40 thùng carton bên trong có 20.000 bao thu thuốc lá điếu hiệu Blnd.555 nhập lậu. Tổng số thuốc lá điếu hiệu Blnd.555 nhập lậu bị thu giữ là 38.480 bao.

Do đó, Tòa án nhân dân Quận B đã xét xử bị cáo Phạm Văn H về tội Vận chuyển hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[3] Xét đơn kháng cáo của bị cáo:

Trong đơn kháng cáo và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo giữ nguyên kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét, xét xử lại để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, với lý do bị cáo là lao động chính trong gia đình và đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự.

Về hình phạt đã áp dụng đối với bị cáo, khi lượng hình thì Tòa án nhân dân Quận B, đến các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo đó là: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 khi quyết định hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tài liệu chứng cứ nào chứng minh cho các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo đã khai nêu trên, bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, song Hội đồng xét xử sau khi cân nhắc đến nhân thân người phạm tội, tính chất và hậu quả của hành vi phạm tội, xét thấy mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo về xin giảm nhẹ hình phạt và giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp với các quy định của pháp luật.

[4] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để chấp nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa về việc không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn H và giữ nguyên bản án hình sư sơ thẩm sơ thẩm số 69/2021/HS-ST ngày 11/5/2021 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Căn cứ điểm b khoản 3 và khoản 4 Điều 191, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 08 (tám) năm tù, về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Thời hạn tù tính từ ngày 22/5/2020.

Phạt bổ sung bị cáo Phạm Văn H số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng để tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

3. Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và căn cứ Điều 22 và 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quyết định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án ngày 30/12/2016, cùng danh mục án phí, lệ phí toà án.

Bị cáo Phạm Văn H phải nộp án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 291/2021/HS-PT

Số hiệu:291/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về