Bản án về tội trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 11/2022/HS-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án; Tòa án nhân dân huyện Định Quán đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 01/2022/HSST ngày 05 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Văn C - sinh ngày 16/8/2002, tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: 141 ấp 3, xã G, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Con ông Hoàng Văn Đ – sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị D – sinh năm 1972; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị bắt tạm giam ngày 08/4/2021 đến nay “có mặt”.

- Bị hại: Đỗ Xuân Đ - sinh năm 1974; Cư trú: Ấp 3, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, Nghĩa vụ; liên quan: Trịnh Minh H - sinh năm 1997. Trú tại: Khu phố H, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Văn C và Phạm Văn N đều là người nghiện ma túy.

Để có tiền mua ma túy sử dụng, C rủ N đi trộm cắp tài sản, N đồng ý. Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 07/4/2021, N điều khiển xe mô tô biển số 50R- 8575 chở C ngồi sau đi vào khu vực xã G, huyện G, tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đến nhà bà Tô Thị T thì cả hai thấy có 02 cây mai vàng trồng trên chậu (của anh Đỗ Xuân Đ là em chồng bà T trồng nhờ tại đây) nên C và N nảy sinh ý định trộm cắp. C dựng xe đứng ngoài cảnh giới; N leo hàng rào vào trong sân nhà bà T, nhổ 02 cây mai ra khỏi chậu. Sau đó, C điều khiển xe chở N ngồi sau ôm 02 cây mai và bán cho anh Trịnh Minh H với giá 2.000.000đ nhưng do thiếu tiền mặt nên anh H chỉ đưa cho C 200.000đ, bù thêm 02 con gà đá và 01 bộ da cá sấu nhồi bông để đổi lấy 02 cây mai.

Sau khi có tiền, C đến khu vực xã Tổ, huyện T, tỉnh Đồng Nai gặp một người tên M mua 01 bịch ma túy đá cất giấu vào túi quần và cùng N trở về nhà C để sử dụng ma túy. Vào lúc 19 giờ 00 phút ngày 07/4/2021, tại nhà của Hoàng Văn C thuộc ấp 3, xã G, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai, Công an huyện Đ phối hợp cùng Công an xã G khám xét, thu giữ 01 bịch nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng thu giữ trên nền nhà nơi C và N đang nằm, C và N khai nhận tinh thể màu trắng trên là ma túy đá mua về để sử dụng. Vật chứng được niêm phong có chữ ký của Hoàng Văn C, Phạm Văn N, người chứng kiến Nguyễn Thị Dvà dấu mộc đỏ của Công an xã G.

Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Văn C và Phạm Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình (Các bút lục số 36 – 60, 178 - 209).

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản ngày 31/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ, kết luận: Tổng trị giá 02 cây mai vàng (01 cây mai vàng, loại Bonsai, đường kính thân 15 cm, đường kính đế 60 cm, tán rộng 60cm, cao 01m; 01 cây mai vàng, loại Bonsai, đường kính thân 12 cm, đường kính đế 45 cm, tán rộng 50 cm, cao 01 m) là 25.000.000đ.

Căn cứ bản kết luận giám định số 716/KLGĐ-PC09 ngày 14/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai, xác định: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,93334 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình tố tụng:

Tại bản Cáo trạng số 81/CT-VKSĐQ ngày 19 tháng 7 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán đã truy tố các bị cáo Hoàng Văn C, Phạm Văn N phạm vào “Tội tràng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại quyết định số 19/HSST-QĐ ngày 21/9/2021 của TAND huyện Định Quán đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung các vấn đề:

Tại phiên toà, thể hiện: Trước khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 1,93334 gam Methamphetamine và đang bị truy tố, thì lúc 01 giờ 00 phút ngày 06/4/2021, Hoàng Văn C và Phạm Văn N đã trộm cắp 02 cây mai vàng của anh Đỗ Xuân Đ tại 3, xã G và mang bán cho một người (chưa rõ nhân thân, lai lịch) được 1.500.000đ để mua số ma túy nêu trên. 02 cây mai vàng qua định giá là 25.000.000đ, đã được thu hồi trả lại cho anh Đại.

Do đó, nếu qua điều tra mà hành vi của các bị cáo C, N đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản thì thuộc trường hợp “Bị can phạm nhiều tội” theo điểm a khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự và phải nhập vụ án để điều tra, truy tố, xét xử chung trong hồ sơ vụ án này; đảm bảo nguyên tắc có lợi cho các bị cáo.

Tại Quyết định số 975/CSĐT ngày 09/10/2021, Cơ quan CSĐT đã nhập vụ án hình sự “Trộm cắp tài sản” vào vụ án hình sự “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với các bị can Hoàng Văn C, Phạm Văn N.

Quá trình điều tra vụ án trộm cắp tài sản, bị can Phạm Văn N đã bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 25/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã thi hành Lệnh bắt bị can để tạm giam số 1115/CSĐT nhưng bị can N đã bỏ trốn nên không thi hành lệnh bắt được. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ ra Quyết định truy nã số 12/CSĐT ngày 13/12/2021 đối với Phạm Văn N nhưng đến nay vẫn chưa bắt được nên đã ra quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can; khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 176/CT-VKSĐQ ngày 29 tháng 12 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán đã truy tố bị cáo Hoàng Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, việc tranh tụng diễn ra như sau:

- Kiểm sát viên giữ nguyên Cáo trạng và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Văn C:

Từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 06 tháng tù. Kiểm sát viên còn có quan điểm về biện pháp tư pháp và án phí đối với bị cáo.

- Bị cáo Hoàng Văn C nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo không còn tình tiết giảm nhẹ nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Định Quán, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Văn C không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ để kết tội đối với bị cáo Hoàng Văn C:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Hoàng Văn C đã khai nhận tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ có trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 07/4/2021, tại ấp 3, xã G, huyện Định Quán, Hoàng Văn C và Phạm Văn N đã có hành vi lén lút trộm cắp 02 cây mai của anh Đỗ Xuân Đ. Trị giá của 02 cây mai là 25.000.000đ nên hành vi của bị cáo Hoàng Văn C đã phạm vào tội trộm cắp tài sản; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 bộ luật hình sự.

Sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, Hoàng Văn C, cùng Phạm Văn N mua 1,93334 gam ma túy Methamphetamine để sử dụng chung thì bị Công an bắt quả tang. Do đó, hành vi của bị cáo Hoàng Văn C đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán truy tố bị cáo Hoàng Văn C, về các tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:

Xét thấy: Hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của bị cáo Hoàng Văn C là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của anh Đỗ Xuân Đ và làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Không những vậy, sau khi có được tiền từ việc phạm tội trộm cắp tài sản, bị cáo Hoàng Văn C đã cùng Phạm Văn N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy.

Đây là vụ án thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn; bị cáo Hoàng Văn C có vai trò nổi trội hơn so với bị can Phạm Văn N thể hiện bằng việc rủ rê, lôi kéo bị can N phạm tội nên phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt nghiêm là hình phạt tù - cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để trừng phạt và giáo dục, đồng thời phòng ngừa chung cho xã hội.

Bị cáo phạm 02 tội nên Tòa án sẽ lượng hình đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định của điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy rằng:

Bị cáo Hoàng Văn C đã rủ rê, lôi kéo bị can Phạm Văn N phạm tội trong khi bị can N chỉ mới 16 tuổi 01 tháng 25 ngày nên hành vi của bị cáo C đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” theo quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, tài sản của tội trộm cắp đã được thu hồi, trao trả cho bị hại nên được xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về biện pháp tư pháp:

- 01 gói niêm phong mẫu vật sau giám định vụ số 716/KLGĐ-PC09 ngày 14/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai, là vật cấm sử dụng và lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- 02 cây mai vàng là tài sản hợp pháp của anh Đỗ Xuân Đ: Anh Đại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu phải bồi thường nên không đặt ra xử lý.

- Đối với anh Trịnh Minh H đã mua cây mai của C và N nhưng không biết tài sản trên do trộm cắp mà có nên không đặt ra xử lý anh H. Anh H đã nhận lại 01 con gà đá nặng 1,1kg; 01 bộ da cá sấu nhồi bông và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên không đặt ra xử lý.

- Đối với số tiền 200.000đ của anh H đã trả cho bị cáo C: 02 cây mai anh H mua từ bị cáo đã bị Công an thu hồi nhưng anh H không yêu cầu bị cáo trả lại 200.000đ. Xét đây là số tiền thu lợi bất C, buộc phải sung quỹ Nhà nước. Quá trình điều tra, Phạm Văn N đã tự nguyện giao nộp số tiền trên nên Tòa án sẽ tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 con gà đá nặng 1,2kg: Sau khi bán cây mai cho anh H, trên đường đi về bị cáo C đã làm sổng mất. Cơ quan CSĐT không thu hồi được nên không xử lý.

- Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Cub màu xanh, biển số 50R – 8575 do bị cáo C và N sử dụng để trộm cắp và mua ma túy: Xe không có giấy đăng ký xe, không rõ số khung, số máy nên không xác định được chủ sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Thông báo số 1536/CSĐT ngày 20/12/2021 để truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả. Do đó, sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai này mà không xác dịnh được ai là chủ sở hữu thì chiếc xe máy trên sẽ được sung quỹ nhà nước theo Điều 228 Bộ luật dân sự.

- Đối tượng M là người bán ma túy cho bị cáo: Hiện tại chưa xác định được nhân thân, lai lịch, do vậy Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau.

- Đối với bị can Phạm Văn N: Cơ quan điều tra Công an huyện Định Quán ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can; khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát: Là phù hợp với nhận định của hội đồng xét xử nên được chấp nhận toàn bộ.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản” và phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Về điều luật áp dụng:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; điểm a khoản 1 Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

4/ Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn C 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của 02 tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 03 (ba) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 08/4/2021.

3/ Về biện pháp tư pháp:

Sung quỹ nhà nước số tiền 200.000đ (Tiền do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Định Quán quản lý theo biên bản lai thu tiền số 0000521 ngày 04/01/2022).

Sau 01 năm, kể từ ngày 20/12/2021 mà không xác dịnh được ai là chủ sở hữu thì chiếc xe máy nhãn hiệu Cub màu xanh, biển số 50R – 8575 (không có giấy đăng ký xe, không rõ số khung, số máy) sẽ được sung quỹ nhà nước theo Điều 228 Bộ luật dân sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong mẫu vật ma túy sau giám định số 716/KLGĐ-PC09 ngày 14/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai.

(Vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Định Quán quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/7/2021).

4/ Về án phí: Bị cáo C phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5/ Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Đỗ Xuân Đ, anh Trịnh Minh H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2022/HS-ST

Số hiệu:11/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về