Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm xe) số 12/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ S – TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 17/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 3 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2022; Thông báo hoãn phiên tòa số: 02/TB-TA ngày 24/02/2022 và Thông báo mở lại phiên tòa số: 06/TB-TA ngày 07/3/2022, đối với:

- Bị cáo: Trịnh Văn B - sinh năm 1996.

ĐKHKTT: Thôn L, xã T, huyện X, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trịnh Xuân H (đã chết) và bà Trịnh Thị V; bố, mẹ bị cáo sinh được 5 người con, bị cáo là con thứ 5 trong gia đình; vợ con chưa có; tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 29/3/2021, bị Công an xã T, huyện X, tỉnh Thanh Hóa, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh nhau”.

Tạm giữ từ ngày: 18/11/2021 đến ngày 27/11/2021. Hiện nay bị cáo tại ngoại.

Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: A1 Lê Văn T4 – sinh năm 1972.

Địa chỉ: Khu phố Văn Phú, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Chị Trần Thị H1 – sinh năm 1992.

2. A1 Trịnh Xuân H2 – sinh năm 1983.

3. A1 Trịnh Văn L2 – sinh năm 1995.

4. A1 Nguyễn Duy V2 – sinh năm 1988.

Cùng địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện X, tỉnh Thanh Hóa.

5. A1 Lưu Đình Đức A1 – sinh năm 1999.

Địa chỉ: Thôn 3, xã T, huyện X, tỉnh Thanh Hóa.

(Các nhân chứng đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trịnh Văn B3 đến thành phố S để làm thợ thi công công trình Quảng trường biển và thuê trọ tại nhà bà Lê Thị N1, ở khu phố Khanh Tiến, phường Trung Sơn, thành phố S. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 14/11/2021, B3 đi bộ một mình từ nhà trọ theo dọc đường Nguyễn Trãi đến điểm chờ xe buýt gần chợ cột đỏ để đón xe buýt đi lên thành phố Thanh Hóa, khi đang chờ xe buýt thì anh Lê Văn T4, sinh năm 1972 trú tại khu phố Văn Phú, phường Q, thành phố S làm nghề lái xe ôm điều khiển xe máy honda Wave S màu xanh xám đen BKS: 36B1 -X lại chào mời đi xe ôm B3 đồng ý. A1 T4 đưa cho B3 đội mũ bảo hiểm màu đỏ rồi chở lên thành phố Thanh Hóa theo đường Quốc lộ 47, khi đi đến điểm chờ xe buýt thuộc khu phố Châu Bình, phường Quảng Châu, thành phố S thì anh T4 dừng xe ở lề đường và nói với B3 “Chú chờ tôi tí”, để vào giao đồ cho khách, do khóa xe bị kẹt nên anh T4 không rút chìa khóa. B3 lúc này đang ngồi trên xe nhìn thấy anh T4 đi vào một ngôi nhà dân và bị khuất tầm nhìn bởi bức tường nên B3 bật chìa khóa nổ máy xe chạy lên thành phố Thanh Hóa, khi đi được khoảng 500 mét thì chiếc mũ bảo hiểm bị rơi, do sợ có người phát hiện và truy đuổi nên B3 tiếp tục đến nhà trọ của chị Trịnh Thị H1 (Chị gái B3), sinh năm 1992 ở đường Thọ Hạc, phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa để ăn cơm, thấy xe lạ đến nên H1 hỏi B3 về nguồn gốc xe thì B3 nói là mượn xe của bạn để về quê, đến khoảng 20 giờ cùng ngày, B3 điều khiển xe trộm cắp được về nhà tại thôn L, xã T, huyện X và dùng làm phương tiện đi lại.

Sau khi bị Trịnh Văn B3 chiếm đoạt chiếc xe máy, anh Lê Văn T4 đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra trình báo. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố S đã xác minh và triệu tập Trịnh Văn B3 đến làm việc, đến ngày 17/11/2021 biết hành vi của mình bị phát hiện và được gia đình vận động B3 đến Công an thành phố S xin ra đầu thú và giao nộp lại chiếc xe máy hondaWaves màu xanh xám đen BKS: 36B1 – X.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 66/KL-HĐĐG ngày 22/11/2021 Hội đồng định giá UBND thành phố S kết luận: Giá trị chiếc xe máy hondaWaves màu xanh xám đen BKS: 36B1 – X tại thời điểm bị trộm cắp ngày 02/3/2021 là 5.000.000đ. (Năm triệu đồng).

Tiến hành trích xuất hệ thống camera đô thị thông minh của thành phố S phát hiện: Trong khoảng thời gian từ 16h8’39s đến 16h18’48s ngày 14/11/2021 xuất hiện hình ảnh Trịnh Văn B3 đi bộ đến điểm chờ xe buýt gần chợ cột đỏ thuộc phường Trường Sơn, thành phố S ngồi đợi. Trong khoảng thời gian từ 16h18’48s đến 16h19’55s cùng ngày hình ảnh Trịnh Văn B3 nói chuyện với anh Lê Văn T4 và đồng ý đi xe ôm. Tiến hành trích xuất hệ thông camera tại phường Quảng Tâm, thành phố Thanh Hóa phát hiện: Trong khoảng thời gian từ 16h27’22s đến 16h27’27s cùng ngày, xuất hiện hình ảnh Trịnh Văn B3 điều khiển xe máy trộm cắp, không đội mũ bảo hiểm đi lên thành phố Thanh Hóa.

Tại bản kết luận giám định số: 78/PC09 ngày 21/12/2021 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Không phát hiện hiệu chỉnh sửa, cắt ghép nội dung hình ảnh trong các tệp video gửi giám định.

Vật chứng của vụ án: Chiếc xe hondaWave S BKS: 36B1 – X màu xanh xám đen, cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Lê Văn T4 và đối với chiếc mũ bảo hiểm màu đỏ đã cũ không còn giá trị nên anh T4 không yêu cầu, đề nghị gì.

Về trách nhiệm dân sự: Trịnh văn B3 đã khắc phục số tiền 1.000.000đ cho anh Lê Văn T4. A1 T4 không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Quá trình điều tra, Trịnh Văn B3 khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số: 11/CTr-VKS.SS ngày 21 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, truy tố Trịnh Văn B3, về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Trịnh Văn B3 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS, về tội “Trộm cắp tài sản”; xử phạt Trịnh Văn B3, mức án từ 06 đến 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án nhưng được trừ đi thời gian đã tạm giữ từ ngày 18/11/2021 đến ngày 27/11/2021.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra Trịnh Văn B3, đã khắc phục hậu quả cho người bị hại, người bị hại cũng không yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của đại Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm có điều kiện trở về với gia đình và xã hội và trở thành người công dân tốt, sống có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Trong giai đoạn tiến hành tố tụng tại Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án: Do lợi dụng sự mất cảnh giác của anh Lê Văn T4 nên vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 14/11/2021, tại khu vực điểm chờ xe buýt thuộc khu phố Châu Bình, phường Quảng Châu, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa, Trịnh Văn B3 đã thực hiện hành vi chiếm đoạt chiếc xe máy honda Waves màu xanh xám đen BKS: 36B1-X của anh Lê Văn T4. Qua định giá, giá trị tài sản là 5.000.000đ.

Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố Trịnh Văn B3, về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã lợi dụng sự mất cảnh giác của người quản lý tài sản để thực hiện hành vi phạm tội, cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây tâm lý hoang mang, lo lắng, bất bình đối với quần chúng nhân dân, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội trên địa bàn dân cư, nên cần phải có đường lối xử lý nghiêm minh tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật.

[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là đối tượng đang có tiền sự. Cụ thể: Ngày 29/3/2021 bị Công an xã T, huyện X, tỉnh Thanh Hóa, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh nhau”. Bị cáo không lấy đó là bài học kinh nghiệm để rèn luyện bản thân mà bất chấp pháp luật, lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người quản lý tài sản nên đã chiếm đoạt được chiếc xe máy của anh T4 để sử dụng làm phương tiện đi lại. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, tài sản trộm cắp được đã được khắc phục trả lại cho người bị hại, ngoài ra bị cáo còn tự nguyện bồi thường thêm 1000.000đ (một triệu đồng) những ngày công mất thu nhập của người bị hại, người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm mà còn có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong thời gian chờ sự phán quyết của pháp luật bị cáo không có vi phạm gì khác, vì vậy, mức độ nguy hiểm của tội phạm đã được giảm đi đáng kể, bị cáo là người dân lao động thuần túy, bố đã mất, gia đình đông anh chị em, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà được hưởng tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm b, i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 BLHS nên khi lượng hình cũng cần xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo. Nhưng xét thấy việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết và chỉ cần xử bị cáo dưới mức khởi điểm của khung hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục răn đe bị cáo sớm trở thành người công dân tốt sống có ích cho xã hội đồng thời răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[5]. Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, anh Lê Văn T4 là bị hại trong vụ án đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên miễn xét.

[6]. Về và án phí: Cần xem xét theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Điều 61; Điều 62; Điều 136; Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Trịnh Văn B, phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Trịnh Văn B, 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giữ kể từ ngày 18/11/2021 đến ngày 27/11/2021.

Về án phí: Bị cáo Trịnh Văn B, phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, vắng mặt bị hại và người làm chứng. Bị cáo Trịnh Văn B3 có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị hại anh Lê Văn T4 có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai tại UBND phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự.

Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm xe) số 12/2022/HS-ST

Số hiệu:12/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sầm Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về